xuống gần đấy để lại đóng vai khách quý của chàng - những con chim mà
chàng còn nhớ rõ là đã nuôi chúng từ năm trước.
Và điều này khiến Rhayader sung sướng, bởi vì chàng biết rằng ẩn bên
trong chúng có mầm mống tri giác về sự có mặt và nơi ẩn náu an toàn của
chàng, rằng sự tri giác này đã tham dự vào cuộc đời chúng để mỗi khi bầu
trời trở xám và gió bấc thổi lộng chúng sẽ tìm lại với chàng không hề lầm
lẫn.
Ngoài ra chàng để hết tâm trí vào việc vẽ lại cảnh vật nơi chàng đang
sống cùng những sinh vật trong miền. Không có nhiều tranh của Rhayader
ngoài thị trường. Chàng say sưa giữ lại, chồng chất chúng trong hải đăng,
và xếp đống ở những tầng trên có tới hàng trăm bức. Chàng không hài lòng
về chúng, vì người nghệ sĩ vốn không mấy khi mãn nguyện về những gì
mình sáng tạo.
Nhưng vài bức đến tay người thưởng ngoạn đều là những kiệt tác, tràn
ngập nguồn sáng và màu sắc từ mặt nước loáng lên, từ những cánh chim
bay rung động toả xuống, từ sự gắng gỏi mãnh liệt của những cánh chim
bay ngược luồng gió sớm mai đang thổi rạp những ngọn lau lớn xuống.
Chàng diễn tả vẻ cô tịch và bầu khí lạnh đượm vị muối, sự vĩnh cửu, vẻ
thiên thu của cánh đồng lầy, những sinh vật hoang dã, những đàn chim bay
trong bình minh, hoặc thảng thốt vút lên bầu trời và những bóng chim xoải
cánh bay trong đêm lẩn trốn ánh trăng.
Vào một buổi chiều tháng Một, ba năm sau khi Rhayader đến ở vùng
Đồng lầy, có một cô bé lại gần phòng vẽ trong hải đăng, qua lối bờ đê. Hai
tay cô ôm khư khư một gói nặng.
Cô bé trạc mười hai tuổi, mảnh mai, lem luốc, lo lắng và nhút nhát như
một con chim, nhưng dưới vẻ lọ lem ấy cô ta đẹp kỳ lạ như một nàng tiên
của vùng Đồng lầy. Cô là giống người Saxon thuần túy, to xương, da trắng
mịn, với một chiếc đầu còn lớn hơn so với thân hình và đôi mắt thăm thẳm
màu tím sẫm.
Cô bé vô cùng khiếp sợ người đàn ông xấu xí mà cô phải đến gặp, vì một
huyền thoại về Rhayader đã bắt đầu hình thành, và những người thổ dân ưa