cùng với chiều dài của bức tường, đến một chòi gác, đúng hơn là một cái
tháp canh bằng đá hoa cương, nhìn được ra bốn phía, có thể ngắm nhìn
được toàn vùng.
— Đấy là trạm canh tuần. Trước lúc phát minh ra hải đăng, người ta đốt
lên một ngọn lửa trên sân thượng. Vậy là sáng hôm ấy, rất sớm, tôi và
người đồng sự đã đến. Chúng tôi bước lên trước bằng mũi bàn chân. Ở
dưới, chính nơi ngày xưa người canh tuần điên rồ đã ngủ ở đấy, chúng tôi
trông thấy một người đàn ông đang ngáy. Một tên khổng lồ. Cách mười lăm
mét đã nghe được tiếng thở của hắn. Thế là chúng tôi đến khoá tay hắn lại
trước khi hắn thức dậy.
Họ đã tụt xuống căn phòng vuông vắn có gió lạnh tràn vào.
— Hắn có giãy giụa không?
— Hầu như không. Người đồng sự của tôi đã hỏi giấy tờ của hắn nhưng
hắn không trả lời. Ông không thể gặp được hắn đâu khi chỉ một mình, hắn
khỏe hơn cả hai chúng tôi. Tôi không lúc nào lỏng tay với cái báng súng
ngắn của tôi. Đôi bàn tay của ông to có phải không? Này, ông thử tưởng
tượng xem bàn tay hắn lớn gấp hai lần đôi bàn tay của ông, đầy hình xăm.
— Anh có thấy những hình xăm ấy biểu thị cái gì không?
— Tôi chỉ thấy có một cái mỏ neo trên bàn tay trái và các chữ cái S. S ở
hai bên. Nhưng có những hình vẽ rắc rối. Có lẽ là một con rắn thì phải?
Chúng tôi không sờ vào những cái vung vãi trên đất. Ở đấy có tất cả: những
chai rượu quý, hảo hạng, những chiếc vỏ đồ hộp và hai chục hộp còn
nguyên, chưa đụng đến. Có điều lạ hơn là: tro của một bếp lửa đã được đốt
lên chính giữa phòng, và, rất gần đây là một ống xương của một đùi cừu,
những khúc bánh mì, vài cái xương cá, một vỏ chai Saint Jacques và những
cái gọng tôm hùm.
— Một chầu nhậu nhẹt thực sự, chứ sao!
Viên cảnh sát trẻ ngẩn người ra, có lẽ anh ta chưa bao giờ dự một bữa
tiệc như thế.
— Điều này cắt nghĩa cho chúng tôi rõ những lời phàn nàn mới đây mà
chúng tôi đã nhận được. Chúng tôi đã không quan tâm đến bởi vì không
quan hệ đến những sự việc quan trọng. Một chiếc bánh 3 kilôgam ăn cắp