dạng mèo, cũng đang vục chân vào, nhưng nó liền lùi lại khi Will đến
gần.
“Nó chưa được nấu chín đâu,” Will nói rồi cầm cái bát đi. “Lần
cuối cậu ăn là bao giờ vậy?”
“Tại nhà cha tớ ở Svalbard,” cô đáp. “Nhiều ngày trước rồi. Tớ
không biết nữa. Tớ đã ăn bánh mì với vài thứ khác tìm được ở đây.”
Cậu châm lửa, đun chảy bơ, đổ trứng vào và để nó tràn khắp mặt
chảo. Cô bé dõi theo mọi việc đầy thèm khát, quan sát cậu vun trứng
thành một chỏm mềm ở giữa chảo trong lúc nó được nấu chín rồi
nghiêng chảo để trứng sống chảy vào những khoảng còn trống. Cô
cũng quan sát cả cậu nữa, cô nhìn gương mặt cậu, đôi tay đang nấu ăn
của cậu, đôi vai trần và bàn chân cậu.
Khi món trứng tráng đã được hoàn thành, cậu gập nó lại rồi dùng
bàn xẻng cắt làm đôi.
“Kiếm vài cái đĩa đi,” Will nói. Lyra liền ngoan ngoãn làm theo.
Thấy cô bé có vẻ sẵn sàng nghe lệnh nếu đó là điều hợp lí, cậu liền
bảo cô đi dọn cái bàn phía trước quán cà phê. Cậu bưng thức ăn ra cùng
với dao dĩa trong ngăn kéo, rồi cả hai ngồi xuống bên nhau, có chút
ngượng nghịu.
Cô bé xử lí phần ăn của mình trong chưa đầy một phút rồi bắt đầu
bồn chồn, hết đu ghế tới lui thì lại bứt những sợi nhựa tổng hợp từ
chiếc ghế đan trong lúc cậu ăn nốt phần trứng tráng của mình. Linh thú
của Lyra lại biến hình, lần này thành chim sẻ vàng, và mổ vào những
mẩu thức ăn vô hình trên mặt bàn.
Will từ tốn ăn. Cậu đã cho cô hầu hết chỗ đậu, nhưng kể cả vậy
cậu cũng tốn nhiều thời gian hơn. Bến cảng trước mặt chúng, ánh đèn
dọc theo đại lộ trống trơn, tinh tú trên bầu trời đêm, tất cả đều chìm
trong sự tĩnh lặng khổng lồ như thể chẳng hề có thứ gì khác tồn tại.
Suốt thời gian đó Will vẫn luôn cực kì cảnh giác với cô bé. Cô gầy
gò và nhỏ nhắn nhưng lại rất dẻo dai và chiến đấu như một con mãnh
hổ; nắm đấm của cậu đã gây ra một vết bầm trên má cô, nhưng cô