mới của mình, rồi hoang mang bỏ chạy. Một phút sau bầu trời lại trở
nên thoáng đãng, tiếng kêu ô-ô-ô hoảng loạn của đám quỷ vực vọng lại
từ những rặng núi đằng xa trước khi nhỏ dần rồi chìm vào câm lặng.
Serafina sà xuống sân rồi đáp lên lớp tuyết bị cày xới và lấm tấm
máu. Người đàn ông lật mũ trùm lại, vẫn đang thận trọng ôm khẩu súng
trường vì phù thủy đôi khi cũng là kẻ thù, còn cô thì thấy một ông già
với cái cằm dài, mái tóc hoa râm và ánh mắt kiên định.
“Tôi là bạn của Lyra,” cô lên tiếng. “Tôi hi vọng chúng ta có thể
nói chuyện. Nhìn này: tôi sẽ hạ cung xuống.”
“Đứa bé đâu rồi?” Ông già hỏi.
“Ở thế giới khác. Tôi rất lo lắng cho sự an toàn của cô bé. Và tôi
cần phải biết Ngài Asriel đang làm gì.”
Ông hạ súng xuống rồi nói: “Vậy mời cô vào trong. Nhìn này: tôi
hạ súng xuống rồi.”
Nghi thức đã được trao đổi xong, họ liền bước vào trong nhà.
Kaisa lượn qua bầu trời phía trên cao để cảnh giới trong lúc Thorold
pha cà phê còn Serafina kể cho ông nghe về mối hên hệ của mình với
Lyra.
“Nó luôn là một đứa nhóc ngang ngạnh,” ông nói khi họ ngồi vào
chiếc bàn gỗ sồi trong ánh sáng hắt ra từ cây đèn dầu. “Năm nào tôi
cũng gặp cô bé khi chủ nhân tới thăm học viện của mình. Tôi rất quý
mến nó, xin lưu ý là người ta không cưỡng lại nổi điều đó đâu. Nhưng
vị trí của nó trong tổng thể bao quát hơn là gì thì tôi không biết.”
“Ngài Asriel đã định làm gì vậy?”
“Cô không cho là ông ấy có kể với tôi chứ, Serafina Pekkala? Tôi
chỉ là đầy tớ của ông ấy, không hơn. Tôi giặt quần áo, nấu ăn và giữ
cho nhà của ông ấy gọn gàng. Tôi có thể đã biết được một vài điều
trong những năm chung sống với chủ nhân, nhưng đó chỉ là tình cờ vớt
vát được thôi. Ông ấy chẳng hề giãi bày với tôi nhiều hơn với cái cốc
cạo râu của mình đâu.”