một bữa ăn tối rất sớm, ông biết rồi mà, vì tối nay tôi sẽ qua
nhà Wheeler vào lúc tám giờ. Thời gian gặp cũng hơi khó chịu một
chút”. Bà nhẹ nhàng đặt khay trà xuống chiếc bàn uống cà phê đã
cổ với mặt bàn đã bị hằn mờ vết keo dán cho những chỗ bị tách khi
John ném chúng ra khỏi phòng vào cái đêm kinh hoàng cảnh sát
đến.
“Ôi, được ngồi xuống thật là tuyệt vời,” bà Givings nói. “Liệu có
gì thú vị hơn khi được ngồi xuống sau một ngày làm việc vất vả?”
Mãi đến khi bà hoàn thành xong tách trà theo như cách pha trà
ông thích, với ba thìa đường, và đưa nó cho ông, bà nhìn lên để chắc
rằng chồng mình vẫn ở đó. Và mãi đến khi đột nhiên cảm nhận
thấy hương trà phảng phất và nhìn vào bà, Howard Givings nhận
ra bà đã về nhà. Dụng cụ trợ thính đã bị tắt suốt chiều. Sự đột
ngột làm cho khuôn mặt ông nao núng giống như một đứa trẻ bị giật
mình, nhưng bà đã không nhận ra. Bà cứ nói liên hồi trong khi ông
đặt tờ Heral Tribune xuống, dò dẫm bật dụng cụ trợ thính với một
bàn tay run rẩy còn tay kia với cốc trà và cái nông đựng chén, nói
huyên thuyên.
Howard Givings trông già hơn bà sáu bảy tuổi. Cuộc đời trưởng
thành của ông dành cả cho việc là một nhân viên cấp thấp của một
công ty bảo hiểm nhân thọ đứng thứ bảy trên thế giới, bây giờ khi
về hưu dường như những năm chán ngắt của công việc văn phòng
đã ghi dấu ông đầy sức sống như những thủy thủ được ghi dấu
bởi gió và nắng. Ông trắng và nhẹ nhàng. Khuôn mặt ông, thay vì
nhăn nheo và suy giảm vì tuổi tác, lại căng mịn như trẻ sơ sinh, và tóc
ông cũng giống trẻ con, mềm và mượt như lụa bông. Ông chưa bao
giờ là một người kiên quyết, và bây giờ điểm yếu của ông là dấu
hiệu của cái bụng to, nó buộc ông phải ngồi với hai đầu gối gầy
còm bị dang rộng ra. Ông mặc một cái áo sơ mi kẻ ô vuông màu đỏ
khá chải chuốt, với cái quần bằng vải flannen màu xám, tất màu