xám và một đôi giày màu đen đã cũ bị nhăn nheo và phần bị nhăn
nheo bị so sánh như da mặt mịn của ông vậy.
“Có bánh không bà?” Ông hỏi, sau khi làm trong giọng. “Tôi nghĩ
chúng ta vẫn còn một vài cái bánh dừa”.
“Vâng, vẫn còn ạ, nhưng ông biết mà, tôi nghĩ chúng ta nên
uống trà đơn giản hôm nay vì chúng ta sẽ ăn tối sớm...”. Bà giải
thích mãi về việc bà bận với vợ chồng Wheeler, chỉ vì bà lờ mờ nghĩ
rằng mình đã nói với ông trước đó, và ông gật đầu, và chỉ lờ mờ về
điều bà đang nói. Khi bà nói bà bắt đầu mê mải vào lúc mặt trời
lặn toả ánh đỏ thẫm qua dái tai của chồng mình và làm cho bộ phận
trợ thính lấp lánh đốm lửa, nhưng suy nghĩ của bà lại đang hướng
về buổi tối.
Đây không phải là lần ghé thăm bình thường đến nhà Wheeler;
nó là, trên thực tế, bước đầu cẩn thận để hoàn thành được kế
hoạch mà bà đã định làm cách đây nhiều, nhiều tuần. Vào lúc
chạng vạng một buổi tối, bà đi tản bộ trên thảm cỏ xanh thẳm ở sân
sau để lấy lại sự bình tĩnh, bà đã nhận thấy mọi người trong trí
tưởng tượng của mình với sự sum họp của một gia đình. April
Wheeler ở đó, ngồi trong một cái ghế làm bằng sắt màu trắng
và quay cái đầu xinh xắn mỉm cười trìu mến với lời bình luận như
một người cha và thông thái của Howard Givings, đang ngồi cạnh cô
gần chiếc bàn sắt màu trắng với đồ uống là cocktail và đá.
Chéo qua họ, đứng và ngả người về phía trước với một ly rượu trên
tay, Frank Wheeler đang nói chuyện thân mật với John, tựa người
vào chiếc ghế dài làm bằng sắt màu trắng trong sự hồi phục lại
tinh thần. Bà sẽ nhìn thấy John cười, kiềm chế và nhã nhặn, bày
tỏ sự bất đồng quan điểm với Frank về một vài điểm nhỏ về
chính trị hay sách hay bóng chày hay là gì đi nữa mà cậu thanh niên
trẻ đó đang nói, và bà nhìn thấy cậu ta quay đầu lại và nói với bà: