“Chủ nhật tới?” bà Givings giả vờ đếm. “Thật ra, xem nào: tôi
không chắc lắm nếu - Được thôi, chủ nhật nhé”. Bà biết là bà
phải cảm thấy vui với điều đó - đó chính là, cuối cùng, những gì
mà bà đến đây - nhưng tất cả những gì mà bà muốn bây giờ là ra
khỏi đây và về nhà. “Tất nhiên là việc đó không khẩn cấp. Nếu
chủ nhật tới không thuận tiện hay anh chị bận gì đó chúng ta có thể
đặt lại lịch mà...”.
“Không, cô Helen. Chủ nhật tới là được mà”.
“Tốt quá,” bà nói. “Tốt quá. Ôi, Chúa ơi. Muộn rồi. Tôi e rằng
tôi nên về - Ôi, nhưng anh chị có điều gì muốn nói thì phải. Thế
là tôi lại nói hết phần của anh chị rồi”. Khi bà nhấp một ngụm
rượu bà nhận ra miệng bà khô lại. Cảm thấy nó bị phồng rộp lên.
“Thật ra, cô Helen,” Frank Wheeler bắt đầu, “Chúng tôi có một
vài tin khá quan trọng...”.
Sau một nửa giờ, suốt cả chặng đường lái xe về nhà, bà Givings
nhướn lông mày vì chưa hết ngạc nhiên. Hình như bà cảm thấy
không thể đợi được đến khi về đến nhà để kể chuyện cho chồng
mình.
Bà thấy ông vẫn ngồi trên ghế tựa trong ánh đèn màu vàng,
bên cạnh chiếc đồng hồ đứng vô giá hoàn hảo bà mua đấu giá
trước chiến tranh. Ông đã đọc xong Herald Tribune và chuẩn bị đọc
Điện tín thế giới và Chủ nhật.
“Howard,” bà nói. “Ông có biết bọn trẻ nói gì với tôi không?”
“Bọn trẻ nào hả bà?”
“Vợ chồng Wheeler, ông biết mà, những người mà tôi vừa đi gặp
về? Đôi vợ chồng sống ở khu Con đường Cách mạng? Những