Bà khóc vì bà đã quá hy vọng vào vợ chồng Wheeler tối nay và
bây giờ bà thất vọng hoảng loạn, hoảng loạn và hoảng loạn. Bà khóc
vì bà đã năm mươi sáu tuổi và bàn chân bà rất xấu, sưng phồng và
trông thật khủng khiếp; bà khóc vì không một cô gái nào giống như
bà khi bà còn học ở trường và không một cậu con trai nào yêu bà sau
đó; bà khóc vì Howard Givings là người đàn ông duy nhất hỏi bà
làm vợ, và bởi vì bà đã chấp nhận điều đó, và vì đứa con trai duy
nhất của bà bị mất trí.
Nhưng chẳng bao lâu thì nỗi buồn của bà chấm dứt; tất cả
những gì bà cần phải làm là đi tắm và hỉ mũi, rửa mặt và chải tóc.
Rồi, làm cho mình được tỉnh táo, bà bước vui vẻ và nhẹ nhàng đi
xuống cầu thang và chiếc tất mềm và quay trở lại ngồi ở ghế
tựa chéo với chồng bà, bật một cái đèn trong phòng khi bà vào.
“ở đó,” bà nói. “Thật là dễ chịu hơn rồi. Thật sự, Howard, thần
kinh tôi căng lên như dây đàn sau khi làm việc với vợ chồng
Wheeler. Ông không thể tưởng tượng được buổi nói chuyện đã làm
cho tôi buồn đến như thế nào. Vấn đề là tôi luôn nghĩ họ là
những người trẻ tuổi chắc chắn. Tôi nghĩ là tất cả những đôi vợ
chồng trẻ ngày nay cần phải ổn định hơn. Ông không nghĩ là họ
phải như vậy à, đặc biệt là trong một cộng đồng như vậy. Chỉ Chúa
mới biết được, tất cả những gì tôi được nghe là những cặp vợ
chồng trẻ muốn xin chết để được ổn định ở đây, và nuôi những
đứa con của họ ở đây...”.
Bà cứ nói mãi, nói mãi và đi đi lại lại trong phòng; Howard
Givings đếm những lần ông gật đầu, ông mỉm cười và tiếng ầm
ầm của ông sáng suốt đến mức mà bà không bao giờ nhận ra ông
đã tắt máy trợ thính vào ban đêm.