khỉ thật, đứa trẻ không có một cơ hội nào để lội nước. Tôi cho anh
một ví dụ”.
Và hắn ta đưa ra hết ví dụ này đến ví dụ khác, trong khi Frank
cố gắng theo kịp hắn. Sau đó một lúc hắn ta dừng lại để thấm
mồ hôi trên đầu bằng chiếc khăn mùi xoa, trông thật ngơ ngác.
“Và đó là vấn đề,” hắn ta nói. “Đó chính là điều mà hiện nay
chúng ta đang phản đối”. Quan sát dứt khoát và cẩn thận, hắn ta
nuốt ực ngụm cuối cùng và tập trung vào đồ ăn đã nguội lạnh
dường như đã làm cho hắn tỉnh ra. Hắn tiếp tục nói trong khi ăn
nhưng hắn đã ít lời hơn một chút và ấn tượng hơn, sử dụng những
từ ngữ như “rõ ràng” và “hơn nữa” thay vì “bọn này” và “bọn nọ”. Đôi
mắt hắn không còn trố ra nữa; hắn ta thôi không đóng vai trùm
phê phán nữa mà đã lấy lại được thăng bằng của một người điều
hành ôn hoà và biết cân bằng. Có phải Frank đã nghĩ về hiệu quả
to lớn của máy tính trong thị trường tương lai không? Chính Bart
Pollock đã khẳng định với anh, để anh phải suy nghĩ. Và anh cứ nghĩ
mãi, nghĩ mãi, thú nhận một cách khiêm tốn về sự làm ngơ của
mình với kỹ thuật, rẻ rúng quyền được nói của mình như một nhà
tiên tri, hoàn toàn lạc hướng trong một mớ cấu trúc câu phức tạp.
Nhìn và cố gắng lắng nghe, Frank nhận thấy ba ly martini của
anh (hay là bốn nhỉ?) thổi phồng âm thanh của nhà hàng trong
một biển tiếng ồn làm tắc tị màng nhĩ và đã gây ra một màn
sương tối tăm đóng lại tầm nhìn của anh ở cả bốn hướng đến nỗi
anh chỉ có thể nhìn thấy những thứ duy nhất ở trước mặt, và chúng
với một sự sáng sủa đến kinh hoàng: thức ăn của anh, những bong
bóng nổi lên trên cốc nước đá của anh, và Bart Pollock không hề
mệt mỏi chuyển động cái miệng của mình. Anh sử dụng toàn bộ sức
lực trong việc ngắm kỹ mục tiêu để đánh giá tính cách của Bart
Pollock khi ăn, để phát hiện ra liệu hắn ta có vương những vết pho
mát màu trắng trên miệng ly hay là nhúng bánh mì vào bát đựng