Trong giây phút họ nghe thấy một tiếng cộp không rõ ràng của
đế giày bằng cao su và tiếng leng keng của chìa khóa sau cánh cửa
được khoá; rồi xuất hiện một thanh niên đeo kính, nặng nề với bộ
đồ màu trắng nói, “Làm ơn đưa cho tôi bộ áo choàng,” và cho phép
họ đi qua, cả hai người cùng một lúc, vào phòng đợi bên trong. Đây là
một nơi thật rộng, ánh sáng lờ mờ gồm những cái bàn có mặt bằng
nhựa sáng và ghế cho người đến thăm bệnh nhân đặc quyền. Các
bàn gần như đã chật hết, nhưng những âm thanh nói chuyện phát
ra rất nhỏ. ở bàn gần cửa ra vào nhất một đôi vợ chồng da đen
trẻ ngồi nắm tay nhau, và không dễ gì nhận ra người chồng là
bệnh nhân cho đến khi bạn nhận ra tay kia của anh ta đang nắm
lấy chân bàn mạ crom trong một trạng thái siết chặt khớp tay đến
vàng da đầy tuyệt vọng, như thể nó là tay vịn của một con tàu đang
chạy. Xa hơn nữa, một bà già đang chải mớ tóc lộn xộn của con trai
mình, trạc tuổi hai nhăm hay bốn mươi gì đó; đầu anh ta đung đưa
dễ bảo dưới mỗi cái giật tóc của bà khi anh ta ăn chuối.
Người phục vụ, gài vòng chìa khoá vào một cái móc ở túi bên
hông, đi vào từ cuối hành lang của phòng bệnh và bắt đầu gọi to
tên được đính trên những chiếc áo choàng mà anh ta đã thu lại.
Nhìn theo anh ta đi về phía đầu cầu thang, nơi được lấp đầy
những âm thanh của những rađiô được bắt ở những sóng khác nhau,
tất cả những gì bạn có thể thấy là một dải chạy dài vải sơn lót sàn
nhà được bôi sáp và các góc với những giường bệnh bằng thép.
Sau một lúc người phục vụ quay lại, gọn gàng trong bộ đồ trắng
đi đầu một cuộc diễu binh tiều tuỵ bé nhỏ. John Givings xuất hiện
ở
phía sau, cao và chân vòng kiềng, một tay cài áo còn tay kia cầm
chiếc mũ lưỡi trai công nhân bằng vải chéo.
“Hay quá,” anh ta nói, chào cha mẹ mình. “Hôm nay họ thả tù
nhân ra trong một ngày đẹp trời! Hay quá”. Anh ta cẩn thận đội