có ý định xin ý kiến ông đâu. Đơn thuần tôi chỉ định nói là chúng
tôi không bao giờ được nghĩ đến việc đưa con tôi giao lưu với người
ngoài cuộc một lần nữa. Hoàn toàn không thể được”.
“Hừm” - Bác sĩ nói - “Vâng, thôi được, những vấn đề như thế
này hoàn toàn tuỳ thuộc vào ông bà..., à, ông Givings, để quyết định
thôi”.
“Tôi biết con tôi ốm,” - bà nói tiếp, sụt sịt mũi, nước mắt chảy
như lời cảnh cáo - “tôi biết con tôi ốm và nó đáng thương lắm,
nhưng nó cũng ăn tàn phá hại lắm, bác sĩ ạ. Thật tàn hại!”
“Hừm. Vâng...”.
Sau đó họ chỉ bó gọn những chuyến đi thăm cuối tuần trong
phòng đợi của khám giam của John. Hình như anh ta cũng không để
ý. Anh ta thường hỏi thăm về gia đình Wheeler, nhưng dĩ nhiên họ
chẳng nói gì cả. Đến ngày lễ Giáng sinh họ có thói quen để cho hai
đến ba tuần trôi qua giữa những lần đến thăm, rồi họ dãn dần
ra mỗi tháng một lần.
Những gì nhỏ nhặt lại làm nên khác biệt. Vào một ngày tháng
Giêng có mưa tuyết, tại trung tâm mua sắm, bà bắt gặp một con
chó con màu nâu, lai, trong tủ kính bày các con thú ưa thích. Bà đi
vào mua con vật mang về nhà, một hành động phi lí, thật ngờ ngẩn
mà bà chưa từng làm trong đời.
Nhưng con vật thật thú vị quá! Nó nhũng nhiễu lắm, nên bà phải
huấn luyện nó đi vệ sinh trên giấy, cho phóng uế ở nơi quy định
và nhiều điều khác nữa. Phải mất nhiều công sức mới luyện được
một con vật ngoan, nhưng nó đáng nuôi.
“Lăn người đi!” - Bà thường dạy nó, ngồi sắp chân trên thảm,
chân đi dép lê - “Lăn người đi!” Rồi bà thường lấy những ngón tay