thuật, tôn trọng các căn cứ khoa học liên quan đến các vấn đề đạo đức và
chính trị. Nhưng chính Mặt trận dân tộc giải phóng - mục tiêu của chiến
tranh diệt cỏ - và đồng minh tại Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (miền bắc
Việt Nam) mới là những người nỗ lực mạnh mẽ nhất để thế giới phải chú ý
về thảm họa mà họ đang phải hứng chịu. Mặc dù xét về mặt tuyên truyền, họ
rõ ràng đã phơi bày được sự khủng khiếp của chiến tranh diệt cỏ, nhưng từ
“tuyên truyền” có lẽ chưa đủ để miêu tả chính xác. Giọng điệu và mục đích
của mặt trận dân tộc thống nhất trong các tài liệu, tờ rơi và các diễn văn
phản đối chiến tranh diệt cỏ khá giống với các tài liệu cùng chủ đề của Mỹ
và châu Âu. Nếu không tính đến mức độ cường điệu và chống Mỹ mạnh mẽ
trong các tài liệu của Mặt trận dân tộc giải phóng thì các tài liệu của những
người phản chiến ở Mỹ và châu Âu thật ra cũng cùng chung một mục đích:
cho cả thế giới biết được sự thật về cách Mỹ tiến hành chiến tranh tại Việt
Nam.
Một trong những thông điệp đầu tiên phản đối chiến tranh diệt cỏ ở Việt
Nam được phát đi vào tháng Tư năm 1963 từ đài phát thanh giải phóng của
Mặt trận dân tộc giải phóng. Phủ sóng không chỉ trong phạm vi Hà Nội, bài
phát thanh đã phản biện những khẳng định chắc chắn của các quan chức Mỹ
về tính an toàn của thuốc diệt cỏ đối với những người bị phơi nhiễm và mức
độ sử dụng thuốc trong các cuộc đàn áp: “Sự thật là Mỹ và chính quyền Ngô
Đình Diệm đã dùng những hóa chất này để thực hiện các cuộc trả đũa nhằm
vào người dân, phá hủy mùa màng cây trái, đẩy người dân vào cảnh cùng
cực và buộc họ phải sống trong các ấp chiến lược”. Tháng Chín năm 1965,
trong bài phát biểu “Chúng ta quyết tâm đánh bại chiến tranh hủy diệt của
Mỹ”, thượng tướng Văn Tiến Dũng thuộc Mặt trận dân tộc giải phóng đã
miêu tả thuốc diệt cỏ như một cuộc “thử nghiệm mặt đất”, hay nói cách khác
là một kiểu phòng thí nghiệm quân sự để chuẩn bị cho các trận chiến trong
tương lai nhằm chống lại người Việt Nam, và đó cũng là một “chính sách
khủng bố” chắc chắn sẽ thất bại.
Trong những năm đầu chiến tranh, những người cộng sản Việt Nam đã
nhận thức được giá trị của việc thiết lập một mục đích chung giữa những
mục tiêu chính trị của họ và dư luận phản chiến ở Mỹ và các nước khác.