duy nhất của chàng sau một tháng rưỡi làm việc mỗi ngày mười tám
tiếng.
Tsugai và ông ủy viên quân sự đến cạnh chàng. Ông này là một
người gầy gò, mặc áo vải thô kiểu Tolxtôi, mặt đỏ ửng lên vì nắng, đôi
mắt ươn ướt và trông như mắt người say, tuy ông không bao giờ uống
rượu và ghét những người say rượu đến nỗi đã có lần suýt bắn chết một
viên đại đoàn trưởng, một người rất tốt, chỉ vì bắt gặp anh ta ngồi uống
rượu trong lều... Chỉ lên dải bờ cao có cái tháp chuông trăng trắng, ông
ủy viên quân sự nói:
- Làng tôi đấy... Ngày trước bà tôi hễ nghe thấy tiếng còi tàu thủy là
lập tức ấn cho chúng tôi một thúng đầy mận, lê, hạt dẻ, bắt ra bến bán:
thật là một bà già tham việc tiếc công... Nhưng rốt cục cũng chẳng làm
cho tôi thành lái buôn được.
- Còn bà tôi thì lại hì-iền hiền hiền, -Tsugai nói, - cứ đi hết những nơi
có thánh tích linh thiêng suốt mười năm, đi đâu cũng dắt tôi theo; hai
bà cháu đi ăn xin mà...
Ông ủy viên quân sự không để ý nghe, nói tiếp:
- Sau đó nhà cho tôi đến lò rèn học việc. Cái lò rèn ấy chắc bây giờ
cũng vẫn còn, kia kìa, ở phía dưới cái tháp chuông ấy. Cho đến nay tôi
vẫn thích cái mùi than củi. Đến khi họ bớp tôi dữ quá, tôi mới lên Kiev
làm trong xưởng sửa chữa đầu máy... Sau đó tôi đi Kharkôv làm ở nhà
máy cơ khí...
Tsugai cũng chẳng để ý nghe ông ta nói gì:
- Hồi ấy tôi là bậc thầy về cái môn lê la trước thềm nhà thờ. Cào sứt
một chỗ nào trên
người, bôi máu lên mặt mắt trợn ngược lên, thế là bắt đầu ê a một bài
kinh "Lazariux"... Sau đó nhiều khi còn cãi cọ đánh nhau với bà tôi chỉ
vì một đồng cô-pếch.
Rồi Tsugai lơ đễnh nhắc lại: