nắm tay, lại hay khóc. Khóc là vì yếu quá, nước mắt cứ thế chảy ròng
ròng trên má, Đarya Đmitrievna mê sảng gần ba tuần, trong khi tàu
ngược dòng sông Volga. Cơn mê sảng của cô ấy, bất an và đau đớn, tâm
hồn luôn luôn vật vã trong những hồi ảnh gì đấy của quá khứ. Có điều
đáng lấy làm lạ: đóng một vai trò khá quan trọng trong những cơn mê
sảng này là một cái kho tàng nào đấy, những viên kim cương nào đấy.
Trong khi mê sảng, Đarya Đmitrievna nói hai giọng khác nhau: một
giọng thì lên án, giọng kia thì thanh minh -nói cứ lí nhí, thổn thức khe
khẽ. Lẽ ra tôi không kể việc này ra làm gì, nếu không tình cờ phát hiện
ra một điều phi thường.
Vốn đã ghi lòng tạc dạ lời dặn của quý đồng chí là phải cho hai bệnh
nhân thân yêu của chúng ta ăn uống tử tế, và tự đặt ra cho mình cái bổn
phận chủ yếu là phải thực hiện cho kỳ được lời dặn ấy, tôi đã nhiều lần
lâm vào tâm trạng ưu phiền và thậm chí hoảng sợ nữa. Thời buổi rất
khó khăn. Người ta bây giờ có hai hạng: người thì tư duy bằng những
phạm trù lớn lao, cảm xúc với quy mô toàn nhân loại chứ không chịu
kém, kẻ thì chỉ lo cứu lấy cái mạng mình một cách vô liêm sĩ đến cùng
cực. Cả hai hạng người đều thiếu lòng trắc ẩn bình thường: hạng người
thứ nhất thì ta có thể làm cho say mê được, hạng thứ hai thì ta có thể
dọa nạt được, nhưng muốn làm cho họ động lòng trắc ẩn trước những
giọt lệ đói khát của ta mà cho ta mươi lạng bánh mì thì thường phải thất
vọng.
Những thứ vật dụng thừa, tất cả những gì mà chúng tôi đã vớ theo,
tôi đều đem đổi lấy bánh mì, trứng, cá hết. Đã mấy lần tôi cứ muốn
đem bán cái áo bành tô bằng dạ của Đarya Đmitrievna, cái áo cô ấy
mặc từ dạo mùa thu năm ngoái khi rời Xamara. Nhưng tôi đã cưỡng lại
sự cám dỗ đó, chủ yếu không phải vì lo xa là mùa thu đã chớm, mà là
vì chiếc áo bành-tô này luôn luôn có mặt trong cơn mê sảng của Đarya
Đmitrievna như một kẻ buộc tội bí hiểm mà tôi không thể nào hiểu
được. Thế là tôi đành phải dùng đến mưu mẹo, tôi quay ra lừa bịp
những tâm hồn cả tin, và trộm cắp thực sự. Đến đây cái khoa xem