Đasa lẳng lặng ngồi ăn; sau một ngày làm việc trong thành phố, nàng
thấy mệt chết người đi được. Nikôlai Ivanôvits rút trong cặp ra một tập
báo, vừa xỉa răng vừa giở ra đọc. Mỗi khi đọc đến những tin không vui,
ông lại bắt đầu chép chép cái miệng cho đến khi Katya phải nói: "Kìa
Nikôlai, anh chép miệng gì mãi thế!" mới chịu thôi. Đasa ra thềm ngồi
xuống, tay chống cằm và nhìn ra cánh đồng bằng đang chìm dần vào
bóng tối, đây đó lác đác những đốm lửa, nhìn lên những ngôi sao mùa
hè rải chi chít trên trời. Từ ngoài vườn đưa vào thoang thoảng mùi bồn
hoa mới tưới.
Trên hàng hiên Nikôlai Ivanôvits giở báo loạt soạt nói:
-Chỉ riêng một điều này đã đủ làm cho chiến tranh không thể kéo dài
được; các nước đồng minh và ta đều sẽ phá sản. Katya hỏi:
- Anh ăn sữa chua nhé?
- Nhưng phải lạnh kia... Thật là bi đát, bi đát quá chừng! Ta đã mất
Lvôv và Lublin. Có ma nó biết được đầu đuôi ra sao! Đánh nhau thế
quái nào được khi có những thằng phản bội nó đâm sau lưng! Kỳ quái
hết sức!
- Kìa Nikôlai, đừng chép miệng nữa anh!
- Thì cứ mặc tôi nào! Nếu ta để mất Varsava thì nhục đến chết mất.
Quả cũng có khi đâm nghĩ quẩn: hay cứ ký bừa một hòa ước gì đấy rồi
quay lưỡi lê chĩa vào Pêteburg? Xa xa có tiếng còi tàu hỏa, - có thể
nghe rõ tiếng bánh lăn ầm ầm qua con suối ban nãy in bóng trời chiều:
chắc đó là chuyến tàu chở thương binh về Moxkva. Nikôlai Ivanôvits
lại giở mấy tờ báo kêu loạt soạt:
-Người ta đưa lính ra mặt trận mà chẳng có súng ống gì: họ cầm gậy
ngồi dưới chiến hào. Cứ năm người mới được một khẩu súng. Khi xung
phong lên họ cũng cầm gậy như thế, chờ khi người bên cạnh ngã xuống
thì cầm lấy súng. Chao ôi, thật chẳng còn ra cái thể thống gì nữa!
Đasa xuống thềm, ra đứng tựa khuỷu tay tay lên cánh cổng. Ánh đèn
từ hàng hiên chiếu lên những tàu lá ngưu bàng óng ánh. Thằng Petka,