hơn trước. Soi gương, nàng không còn nhận ra mình được nữa, đặc biệt
là đôi mắt sao khác trước quá thể, một đôi mắt lạ lùng, nhìn vào mà
chóng cả mặt.
Khoảng giữa tháng tám hai vợ chồng Xmôkôvnikôv cùng với Đasa
lên đường trở về Pêterburg, trong tòa nhà lớn của họ ở phố
Pantêlêymôn. Lại những bữa ăn tối vào ngày thứ ba hàng tuần, những
phòng triển lãm tranh, những buổi đầu sôi nổi ở các kịch viện và những
vụ kiện xôn xao dư luận, lại đi mua tranh, lại chơi đồ cổ, lại phóng xe
đến xóm "Xamarkanđ" của người Tzigan chơi suốt đêm. Lại thấy xuất
hiện gã tình-nhân-hay-lý-sự, đã trút bỏ được hai mươi ba bảng thịt và
mỡ ở suối nước khoáng, và thêm vào tất cả những cái thú vui nhộn nhịp
ấy lại có những tin mơ hồ, gieo lo lắng và vui mừng vào lòng mọi
người, đồn rằng một cuộc chuyển biến nào đó đang được chuẩn bị.
Bây giờ Đasa không còn thì giờ đâu mà nghĩ ngợi hay cảm xúc gì
nhiều: buổi sáng nàng phải đi nghe giảng, đến bốn giờ chiều nàng đi
dạo với chị, rồi đến tối thì nào đi xem kịch, nào nghe hòa nhạc, nào tiệc
tùng, khách khứa - không có lấy một phút nào yên tĩnh.
Vào một tối thứ ba, sau bữa ăn, khi các tân khách đang uống rượu
mùi, Alekxêy Alekxêyevits Bexxônôv bước vào phòng khách. Trông
thấy chàng hiện ra ở ngưỡng cửa, Êkatêrina Đmitrievna đỏ bừng mặt
lên. Câu chuyện chung bị cắt ngang. Bexxônôv ngồi xuống đi-văng và
cầm lấy chén cà-phê của Êkatêrina Đmitrievna trao cho.
Hai ông trợ lý trạng sư vốn là người am hiểu văn học, đến ngồi cạnh
chàng. Nhưng Bexxônôv, mắt đưa về phía nữ chủ nhân một cái nhìn
kéo dài và kỳ dị, đột ngột nói rằng tuyệt nhiên không làm gì có nghệ
thuật, mà chỉ có một lối bịp đời, một trò quỷ thuật của thầy phù thủy
cho khỉ leo dây lên trời.
"Không làm gì có thơ ca. Mọi thứ đã chết từ lâu - con người cũng
như nghệ thuật. Nước Nga thì chỉ là một cái thây đang làm mồi cho đàn
quạ bâu vào khoét rỉa. Còn những kẻ nào làm thơ thì đều sẽ xuống địa
ngục hết".