ở những người nghiện rượu và những người tàn ác. Môi ông ta ướt và
đỏ, đôi mắt đen mở rộng. Ống tay trái của chiếc áo Tserkex đung đưa,
ông ta đến sát Xôkôlôvxki và Têlêghin, ném vào mắt họ một cái nhìn
man dại. Đoạn ông ta quay về phía viên tham mưu trưởng. Hai cánh
mũi giận dữ rung lên:
- Lại những lề thói của chế độ cũ! "Im ngay" là cái quái gì? Nếu họ
có lỗi, họ sẽ bị xử bắn... Nhưng không có cái lối nạt nộ người ta như
ông tướng ngày xưa thế! Viên tham mưu trưởng cúi đầu lặng thinh
nghe lời quở trách. Ông ta không còn có thể đối đáp gì nữa: đó chính là
tổng chỉ huy Xôrôkin.
- Ngồi xuống đấy các đồng chí, tôi nghe đây.
- Xôrôkin nói, giọng điềm tĩnh, rồi ghé đít ngồi lên bậu cửa sổ.
Xôkôlôvxki lại bắt tay vào trình bày mục đích của chuyến đi: xin lệnh
chuẩn y cho trung đoàn Varnavxki lập tức xuất quân đến cứu viện cho
trung đoàn láng giềng "Tự do vô sản"; ngoài nghĩa vụ cách mạng ra,
một sự suy tính đơn giản cũng đòi hỏi phải làm như vậy: nếu bên "Tự
do vô sản" bị đánh tan, thì trung đoàn Varnavxki sẽ bị cắt ra khỏi căn
cứ của nó.
Xôrôkin chỉ ngồi trên bậu bên cửa sổ một giây, rồi đứng dậy đi đi lại
lại rất nhanh, vừa đi vừa hỏi những câu ngắn gọn. Mái tóc rất đẹp của
ông ta bay tung lên mỗi khi ông ta quay phắt lại.
Binh sĩ yêu mến Xôrôkin vì tính hăng hái bồng bột và lòng dũng
cảm. Ông biết cách nói trong những buổi mít-tinh. Vào thời kỳ ấy, hai
đức tính này nhiều khi có thể thay thế được trí thức quân sự. Xôrôkin
vốn là sĩ quan cô-dắc, mang quân hàm phó vệ trưởng, đã từng chiến
đấu trong quân đoàn Yuđênits ở vùng Zakavkaz. Sau cuộc biến động
tháng Mười ông trở về Kuban và tổ chức ở quê hương ông, làng
Pêtrôpavlôvxkaia, một đội du kích gồm những trai tráng trong làng.
Đội của ông đã lập được nhiều thành tích trong những ngày
Êkatêrinôđar bị vây hãm. Ngôi sao của ông lên rất nhanh. Vinh quang
làm cho ông ngây ngất. Vốn tràn trề sinh lực, ông có đủ thì giờ vừa