gương mặt ấy nhòa đi và dần dần có một gương mặt khác hiện từ từ lên
cái nền huyết dụ của những tấm màn cửa đêm qua, nàng bóp ví lại đánh
tách một cái và cũng bỏ đi, đôi mày cau lại, môi mím chặt. Thằng bé có
đôi chân vòng kiềng toan chạy theo nàng nhưng lại vấp ngã, tấm thân
bé bỏng rơi đánh phịch một tiếng xuống cát. Nó òa lên khóc nức nở.
Căn phòng của Đasa ở trên phố Xitxex Vrajôk, trong một ngôi biệt
thự cũ kỹ, cửa sổ trông ra sân sau. Ngôi nhà hình như đã bị bỏ hoang
được ít lâu nay. Đasa đi vòng ra cửa sau, gõ mãi hồi lâu mới thấy một
bà già thấp bé, bẩn thỉu, có đôi mi mắt lộn tròng, dáng chừng là vú em
nhà này, ra mở. Hồi lâu bà ta vẫn không hiểu đầu đuôi ra sao cả. Nhưng
rồi bà ta cũng cho Đasa vào nhà và dẫn nàng lên buồng, rồi bắt đầu kể
lể những gì không sao hiểu nổi:
- Mấy con chim ưng tốt lành của tôi đi hết rồi -cả Yuri Yurits, cả
Mikhail Yurits, cả Vaxili Yurits... Còn thằng Varenka thì chỉ về một lần
năm mười sáu vào tiết lễ thánh Fôma... Tôi đã bắt đầu cầu nguyện cho
linh hồn chúng nó được yên rỗi trên thiên đàng...
Bà ta toan dọn trà, nhưng Đasa từ chối. Nàng cởi áo ngoài chui vào
tấm chăn bông và ép chặt gối vào miệng khóc rưng rức trong bóng tối.
Sáng hôm sau, bên cạnh tượng Gôgôl, nàng nhận chỉ thị mới và được
lệnh hôm sau phải có mặt ở nhà máy. Nàng định về nhà, nhưng nghĩ thế
nào lại ghé vào tiệm cà-phê "Bôm". Ở đấy Jirôv cứ lăng xăng cạnh
nàng hỏi nàng xem đi đâu mà mất tăm, tại sao nàng đi mà lại không lấy
đồ đạc mang theo. "Tôi đang đợi Mamônt gọi điện, nếu Mamônt hỏi
cô, tôi sẽ trả lời ra sao đây?" Đasa ngoảnh mặt đi để hắn khỏi trông
thấy má nàng đỏ bừng lên... Nàng tự nhủ, trong khi bản thân nàng cũng
thấy là mình nói dối: "Xét cho cùng, cứ theo chỉ thị khi cần tiếp tục làm
quen với bọn này kia mà..."
- Tôi sẽ ghé về lấy đồ đạc, - nàng gắt, - rồi sẽ hay. Nàng trở về căn
buồng ở phố Xitxev Vrajôk, tay xách cái bọc đựng tấm khăn choàng
lông quý giá, mấy thứ đồ lót và chiếc áo dài gấm hôm qua. Nàng giở
bọc lấy các thứ ném lên giường. Ngồi nhìn các thứ đó, nàng bỗng run