xuống sông uống nước. Têlêghin khe khẽ hô mệnh lệnh. Trước hết phải
có bao cát để xếp trên mạn tàu. Các chiến sĩ cởi áo sơ-mi buộc kín lại,
nhồi cát vào rồi đặt dọc lan can tàu. Họ làm lặng lẽ, chẳng ai buồn đùa
bỡn lúc này.
Trời bắt đầu hừng sáng. Công việc chuẩn bị đã xong. Khẩu đại bác -
một khẩu sơn pháo nhỏ đã han rỉ - được đặt ở mũi tàu. Năm mươi chiến
sĩ lên tàu nằm sau các bị cát. Khvêđin đứng cầm bánh lái:
- Mở hết tốc lực, tiến lên! Nước ở dưới guồng bánh sôi lên sùng sục.
Con tàu vòng qua đảo rất nhanh rồi theo nhánh chính tiến thẳng về phía
thị xã. Ở đấy lác đác có mấy ánh đèn vàng vàng nhấp nháy. Phía sau
nổi lên mờ mờ những đường viền tối sẫm của mấy dãy núi chìm trong
đêm. Bây giờ tiếng gà gáy nghe đã rất to. Ivan Ilyits đứng cạnh khẩu
đại bác. Chàng không thể nào hình dung rằng chỉ lát nữa sẽ phải nổ
súng vào cõi tĩnh mịch vĩnh hằng này. Người lính Khvalynxk đã xung
phong làm nhiệm vụ chỉ mục tiêu cho đại bác, một người dáng dấp hiền
lành, giống như một anh thầy lễ hay đi câu cá, cất tiếng nói dịu dàng:
- Đồng chí chỉ huy thân mến, có lẽ nên nã vào nhà bưu vụ một tí nhỉ?
Nã đúng vào chính giữa ấy... Đồng chí có trông thấy không: có hai
ngọn đèn vàng vàng đấy...
- Mục tiêu: nhà bưu vụ! - tiếng Khvêđin oang oang trong loa - khẩu
đội chuẩn bị! Nhắm thẳng qua nòng!
Anh pháo thủ ngồi xổm xuống dòm qua nòng súng, hướng nó vào
hai ngọn đèn, rồi nạp đạn. Anh ta quay sang Têlêghin nói:
- Đồng chí thân mến, đồng chí lùi ra một tí, nhỡ cái của nợ này nổ
toác ra...
- Bắn! - Khvêđin hô to. Khẩu bại bác phụt lửa ra sáng lòa, giật lùi lại.
Tiếng nổ vang rền chuyển đi trên mặt nước, vọng vào vách đá. Gần chỗ
có hai ngọn đèn vàng vàng bùng lên một ánh chớp, và tiếng nổ thứ hai
lại vọng vào vách núi.