Viên tư lệnh pháo binh đọc đi đọc lại mãi bản mệnh lệnh đột ngột và
khủng khiếp này. Lệnh này thật quá ư mạo hiểm, và việc thi hành mệnh
lệnh thật vô cùng khó khăn. Như thế có nghĩa là phải đem tập trung vào
một khu vực rất nhỏ hẹp (ở chỗ bị chọc sâu) cả hai mươi bảy đội pháo
gồm hai trăm khẩu... Và nếu quân địch không vui lòng dẫn xác đến
đúng chỗ này, mà lại đánh chếch sang bên phải hay sang bên trái một
chút, hay nguy hiểm hơn nữa, lại đánh vào sườn -miệt Xarepta hay
Gumrak, thì cơ sự sẽ ra sao? Thì quân ta sẽ bị bao vây và tiêu diệt!
Trong một tâm trạng hoang mang đến cực độ, tư lệnh pháo binh ngồi
vào máy điện thoại và bắt đầu gọi điện cho các chỉ huy tiểu đoàn, ra
lệnh cho họ phải di chuyển đến những chỗ nào và theo những con
đường nào: cả cái cơ ngơi to lớn cồng kềnh gồm hàng mấy nghìn
người, ngựa, xe, pháo, lều ấy bây giờ phải dựng dậy, thắng vào, chở
lên, chuyển đi, rồi dỡ xuống, tháo ra, bố trí, đào công sự cho pháo, mắc
dây điện thoại, và tất cả những việc ấy phải làm cho xong trong mấy
tiếng đồng hồ trước khi trời sáng.
Không rời máy điện thoại, ông quát vọng xuống phía dưới bảo đem
một cây đèn lồng lên và bảo dặn tất cả các chiến sĩ liên lạc viên chuẩn
bị sẵn ngựa. Mở khuy cổ chiếc áo sơ mi da, tay vuốt vuốt lên cái đầu
cạo nhẵn thín, ông đọc cho liên lạc viên chép những bản mệnh lệnh
ngắn. Chép xong, các liên lạc viên xuống cầu thang ra khỏi cái tháp
nước, nhảy lên yên ngựa và phóng đi trong đêm tối. Tư lệnh pháo binh
vốn là người mưu trí. Ông ra lệnh đốt trên các trận địa pháo cũ -sau khi
đã di chuyển hết những đống lửa không to lắm, trông sao cho thật tự
nhiên, cốt cho quân địch tưởng rằng trong đêm giá lạnh bọn pháo binh
đỏ đang hơ ấm những đôi chân không giày của họ.
Sau khi đọc lại bản mệnh lệnh một lần nữa, ông nghĩ bụng là dù sao
cũng không nên bỏ trống hoàn toàn hai bên sườn, bèn quyết định để lại
ba mươi khẩu pháo ở miệt Xarepta và ở miệt Gumrak. Khi các tiểu
đoàn trưởng pháo binh đã báo cáo lại cho ông biết rằng pháo đã kéo
đến vị trí mới. Đạn dược và thuốc men đã được chở đến nơi và những