lên vẻ mạnh mẽ và nghiêm nghị đáng sợ. Tôi leo xuống ghế rồi chạy
đến phòng Bà chủ Koto, la lên rằng bà có ba người khách khác lạ. Bà
lao về quán, buộc chặt áo choàng quanh người, nhổ thuốc xỉa đi. Khi
tôi đến đó thì bà đang ở ngoài. Tôi nhìn quanh. Ruồi và thạch sùng
không còn. Con mèo đen hé nhìn tôi qua cửa sau, tôi đi kiếm nó thì nó
nhảy qua tường khu nhà. Tôi đến trước quán, không thấy Bà chủ Koto
đâu. Tôi vào quán thấy bà đang lau bàn bằng giẻ ướt, bà nói: “Ta
chẳng thấy ai hết. Gọi ta khi có khách, nghe chưa?”
Tôi chẳng gật đầu cũng chẳng nói gì.
Sau khi khỏi bệnh, mẹ trở nên buồn bã, gầy gò và điềm tĩnh hơn. Mỗi
sáng ngủ dậy, bà đi quanh quẩn trong phòng như đêm qua có cái gì đó
đánh gục bà, mà bà không nhớ được là cái gì. Ba ngủ trễ và dậy sớm.
Buổi sáng khi tôi thức dậy thì ông đã đi kiếm việc. Mẹ dọn phòng qua
loa, lẩm bẩm về mấy con chuột và cái nghèo.
Vài buổi sáng tôi tỉnh giấc vì cái tủ chè rung lên do bị mẹ lấy chổi
đánh. Bà mắng nhiếc tủ chè, đánh dưới gầm, quất vào thau đựng đồ
tạp hóa cùng mấy bao tải chứa garri, làm như chính chúng gây tổn hại
cho bà. Đôi lúc bọ da chạy tán loạn trong trận đánh đập của bà, rồi
chúng bò lên mặt tôi, tôi nhảy nhổm lên. Mẹ chẳng để ý, bà làm cho
hả mối thù nên cứ đánh. Bà hay quét sạch chúng vào cái chảo, vứt cái
chổi, đi ra ngoài xử lý đám bọ rồi chúng tôi mới ổn định mà ăn uống.
Bà luôn cho tôi một ít bánh mì mang đi học, và luôn cố tìm đường
nào thuận để đi cùng tôi đến trường, rồi bà tiếp tục cân bằng cái thau
đội trên đầu, đi qua các con đường rao bán hàng tạp hóa.
Ba biến mất khỏi đời tôi một thời gian. Tôi thức dậy không thấy ông.
Tôi đi ngủ lúc ông chưa về. Ông làm việc cật lực, khi tôi gặp được
ông vào những ngày chủ nhật, ông có vẻ đang đau đớn. Lưng ông
luôn bị thương, mỗi chiều tôi và mẹ phải dẫm lưng cho ông để giảm
đau. Lưng ba rất khỏe và gồ ghề, tôi chẳng bao giờ giữ thăng bằng