thành phòng trưng bày công cộng đầu tiên của chúng tôi. Mỗi trưa,
học xong, chúng tôi đến đó xem chủ đề gì mới được trưng bày, mấy
đám ma mới mẻ làm sao, các cuộc duyệt binh thế nào, bọn côn đồ
quấy nhiễu nữ thương buôn ở chợ ra sao, trẻ sơ sinh nào anh bắt được
cảnh đang khóc chào đời. Anh cũng là tờ báo địa phương đầu tiên của
chúng tôi.
Bọn trẻ là những người đầu tiên tỏ ra thích thú những tấm hình của
anh. Rồi đến người lớn, mỗi sáng khi đi làm, họ bắt đầu dừng lại xem
anh thợ ảnh chăm chỉ có hình gì mới trưng bày. Họ cũng dừng chân
buổi chiều khi đi làm về. Anh luôn gây ngạc nhiên cho chúng tôi, và
bắt đầu nhiệt tình với lòng mong đợi của chúng tôi. Vì vậy, anh rất
được lòng bọn trẻ. Hễ lúc nào thấy anh đeo máy ra phố, thì chúng tôi
luôn rộ lên hoan hô. Anh hay mỉm cười, làm bộ chụp hình chúng tôi
rồi biến mất vào gian buồng bí ẩn của phòng ảnh. Rồi về sau chúng
tôi quên mất tên anh, anh được chúng tôi gọi đơn giản là “Anh phó
nhòm.”
Những buổi trưa, sau khi bị xua khỏi tủ kiếng của anh, tôi thường
chơi với mấy trẻ khác. Chúng tôi có cả vũ trụ để chơi. Chúng tôi chơi
dọc đường phố chằng chịt và các lối mòn đang nới rộng, quanh lều và
nhà cửa, ở những chỗ đang xây dựng và trong rừng. Khi tôi mệt và
đói thì xin anh phó nhòm đồ ăn. Đôi lúc anh cũng than phiền vì tôi
quấy nhiễu, nhưng hầu như lúc nào cũng cho tôi miếng bánh mì, nói:
“Ba mày chưa trả tiền hình cho tao à nha.”
Ngày nọ, với ánh mắt lấp lánh và giọng âm mưu, anh nói: “Quậy
ba mày giùm tao nghe. Tao sẽ cho mày một hào nếu ổng trả tiền
hình.”
Anh tiếp tục quấy rầy tôi, bắt tôi cũng quấy rầy ba như vậy. Rồi anh
dọa không bao giờ cho tôi đồ ăn hoặc nói chuyện với tôi đến khi nào
trả tiền hình mới thôi. Một hôm, trông anh có vẻ đói và đáng thương,
tôi hỏi thăm thì anh nạt ngang, xách chân máy đi và gào lên rằng