chẳng bao giờ có ma nào chịu trả tiền hình, rồi rượt tôi ra đường.
Hôm đó anh hết sức hung tợn. Cái đói và sự cay đắng làm anh xấu xa,
còn tôi né anh một thời gian.
Cái đói của anh trở nên tệ hơn. Buổi sáng anh chẳng còn lo thay
hình trong tủ kiếng, chẳng lo chuyện gây ngạc nhiên cho chúng tôi
nữa. Các bức hình cũ bạc màu và buồn bã, quăn góc dưới sức tẩy của
ánh nắng. Buổi tối, chúng tôi nghe anh than khóc, rủa sả tất cả kẻ
không chịu trả tiền, la rằng tại đám người như chúng tôi đã đẩy đám
đàn ông lương thiện vào tội ác và tham nhũng. Quần áo anh trở nên
sờn cũ, râu mọc tua tủa và nâu đi. Nhưng cái đói chẳng dập tắt được
tinh thần của anh, vào buổi trưa anh vẫn lên xuống phố chụp hình với
ánh mắt dại cuồng và lòng bền bỉ trong tâm trạng tệ hại.
Đám trẻ hết tụ tập quanh tủ trưng bày ảnh của anh. Chúng tôi phát
minh mấy trò khác và chơi bóng đá. Trưa nọ, trong lúc chơi, chúng tôi
đá trái banh mạnh quá, trệch khỏi khung thành, làm vỡ tan cái tủ của
anh phó nhòm. Anh đi ra, vung con dao rựa và ánh mắt điên cuồng,
cử động của anh không còn sức, lưỡi lè ra bám đầy bợn trắng. Anh
run rẩy trong nắng, yếu ớt và bệnh hoạn. Anh đến cái tủ, nhìn sự tàn
phá chúng tôi đã gây ra, nói: “Đừng đụng vào cái tủ! Ai đụng vào tao
giết hết!”
Thế là trái banh nằm trong tủ cùng các mảnh kiếng vỡ và những bức
hình đang bạc màu. Người lớn đi ngang lắc đầu khó hiểu với hình
thức mới lạ của cách dựng hình. Trái banh vẫn ở trong tủ khi trời
mưa, nước ngập hết hình. Côn trùng sinh sôi trong tủ cùng các dạng
tổ lạ lùng, và nấm mọc lên các chủ đề hồn nhiên siêng năng của anh.
Chúng tôi đều thấy buồn khi anh phó nhòm mất đi niềm đam mê
nghề. Anh gầy mòn đi trong căn phòng hẹp, run rẩy trong gọng kìm
của cơn sốt lạ thường, khi thấy anh, anh luôn trùm miếng vải đen bẩn
thỉu.