nhà, hi vọng tôi đang chờ bà ở đó thì chỉ nhận ra rằng ba cũng biến
đâu mất.
“Trong một đêm,” bà nói, “tôi lạc mất đứa con duy nhất và luôn cả
chồng mình.”
Bà thức trắng đêm bên ngoài khu nhà thuê bị cháy với tất cả gia
sản rơi vãi trên phố. Vào buổi sáng, người trọ chuyển đến các khu nhà
thuê mới, các khu ổ chuột. Mẹ cố phân loại đồ đạc chúng tôi với họ
hàng. Rồi bà đến mọi bệnh viện và đồn cảnh sát mà bà tìm ra được.
Bà đi hết cả thành phố, khôn nguôi với nỗi mất mát. Khi bà chịu thua
nỗi tuyệt vọng, thì trong nỗ lực sau cùng bà đến đồn cảnh sát ở trung
tâm thành phố, và được kể là ba đang ở đó, bị nhốt vì có tham dự
trong cuộc bạo động. Bà xoay xở gặp ông. Ông bị cảnh sát đánh và
một vết cắt xấu xí trên trán. Vết bầm khắp mặt ông, còn một tay lủng
lẳng bên mình như một phần thừa bệnh hoạn. Hôm sau, sau khi van
nài và thêm chút của hối lộ, ba được thả. Ngay hôm đó ba đi làm rồi
nhận ra mình đã bị sa thải. Suốt thời gian đó, mẹ đã thành công khi
tìm được một căn phòng cho cả nhà. Bà cũng có cách trả trước được
tiền thuê tháng đầu. Ba về nhà mới với tâm trạng tồi tệ và trạng thái
hung tợn. Tối đó ông bị bệnh, lảm nhảm về bọn lính điên rồ đã giết
người da trắng trong các cuộc chiến bên kia đại dương.
Mẹ điên cuồng với sự mất tích của tôi. Bạn bè bà đề nghị đến hỏi ý
thầy cúng. Ban đầu bà hồ nghi, nhưng sau khi mọi cách đều thất bại,
từ việc đến các đồn cảnh sát, các bệnh viện đều vô vọng, bà đã xiêu
lòng. Bà được đưa đến một thầy cúng. Có gò miểng chai ở trước căn
chòi của bà ấy. Mẹ bước vào đầy khó khăn. Thầy cúng là một phụ nữ
có vẻ đáng sợ với một con mắt sáng hơn con còn lại, nói rằng nhờ
mấy vong hồn mà bà biết mục đích mẹ đến đó.
“Đi đi,” bà la lên với giọng khàn khàn, “đem cho tôi một con gà trống