động của thai nhi. Thỉnh thoảng anh lại đứng dậy để thêm củi vào đống
lửa, liếc nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy chừng tám phân tuyết phủ trên
mặt đất, rồi mười ba hoặc mười lăm phân. Phố xá êm ả và yên tĩnh, chỉ
có chừng dăm ba chiếc xe.
Lúc mười một giờ nàng đứng dậy đi ngủ. Anh nán lại tầng dưới, đọc
số mới nhất của
Tạp chí phẫu thuật xương khớp. Anh vốn có tiếng là
một bác sĩ rất giỏi về năng lực chẩn đoán và nổi danh vì làm việc bài
bản. Anh đã tốt nghiệp với điểm số cao nhất lớp. Tuy nhiên, anh còn
khá trẻ và – dù anh giấu rất khéo – khá tự ti về kỹ năng của mình nên
vẫn chăm chỉ nghiên cứu trong từng phút rảnh rỗi, gom góp từng thắng
lợi mà anh coi như một bằng chứng nữa có lợi cho mình. Anh cảm thấy
mình là một kẻ lập dị, sinh ra với lòng đam mê học hỏi giữa một gia
đình chỉ biết đắm chìm trong những cuộc vật lộn đơn thuần để sinh
nhai, ngày qua ngày. Họ coi học vấn như một thứ xa xỉ phẩm không cần
thiết, một loại phương tiện chẳng dẫn đến kết quả gì chắc chắn. Vì
nghèo khổ nên tất cả những lần họ đi bác sĩ đều chỉ là đến phòng khám
ở Morgantown, cách năm mươi dặm đường. Ký ức của anh về những
chuyến đi hiếm hoi ấy vẫn sống động, người nảy lên nảy xuống ở phía
đuôi chiếc xe tải nhẹ đi mượn, bụi bặm cuốn theo chân. Con đường
nhảy nhót, em gái anh đã nói với ra như thế từ chỗ ngồi của cô trong
buồng lái với bố mẹ họ. Ở Morgantown, phòng ốc thì lờ mờ tối với màu
xanh u ám hoặc màu rêu của nước ao, còn các bác sĩ thì vội vàng, vồn
vã với họ, đầu óc phân tán trên mây.
Trong tất cả những năm sau đó, vẫn có những khoảnh khắc anh cảm
nhận được cái nhìn chòng chọc của mấy vị bác sĩ ấy và thấy mình như
một kẻ lừa đảo sắp bị lột mặt nạ chỉ bởi một sơ suất nhỏ. Anh biết lựa
chọn về chuyên ngành của mình phản ánh điều này. Anh không có
hứng thú gì đối với chuyên ngành nội tổng quát hay những ca nghẽn
động mạch tim nguy hiểm. Anh chủ yếu xử lý các ca chấn thương xương
chi, chỉnh hình và xem hình chụp X-quang, ngắm nhìn các vết nứt vỡ tự