lòng thư thái – thật dễ chịu khi giúp được những người đang gặp khó
khăn, khi an ủi được họ – điều mà dường như anh không làm nổi cho
những người mình yêu thương nhất. Paul khẽ đập tay lên ngực anh, rồi
túm lấy chiếc phong bì anh nhét trong túi: lá thư của Caroline Gill, vừa
được đưa tới văn phòng của anh sáng hôm đó. Anh chỉ mới đọc một
lần, thật nhanh, rồi cất ngay đi vừa lúc Norah bước vào, cố giấu vẻ bối
rối trên mặt.
Chúng tôi vẫn khỏe, Phoebe và tôi, thư viết. Cho tới giờ,
cảm ơn trời, tim con bé vẫn chưa có gì bất thường.
Anh nhẹ nhàng nắm lấy những ngón tay bé nhỏ của Paul. Con trai
anh ngước lên, đôi mắt tròn xoe tò mò, anh bỗng cảm thấy trong lòng
tràn ngập tình yêu thương vô bờ.
“Này,” David mỉm cười nói. “Bố yêu con lắm, cậu nhỏ ạ. Nhưng
không được ăn cái đấy, nghe chưa?”
Paul nhìn anh với đôi mắt sẫm tròn xoe, rồi xoay đầu, áp má lên
ngực David, tỏa ra làn hơi ấm sực. Thằng bé đội một cái mũ trắng thêu
hình những chú vịt vàng óng do chính tay Norah làm trong những ngày
lặng lẽ, thao thức sau tai nạn. Cứ mỗi con vịt hiện ra là David lại thấy
nhẹ nhõm thêm chút ít. Khi rửa cuộn phim đã chụp hết trong chiếc
máy ảnh mới, anh đã nhìn thấy nỗi đau của nàng, khoảng trống trong
tim nàng: căn phòng nọ nối tiếp căn phòng kia nơi ngôi nhà cũ họ từng
sống, thảy đều trống trơn, hình chụp cận cảnh những khung cửa sổ, cái
bóng u buồn của tay vịn cầu thang, những ô gạch lát nền, xiên xẹo và
vẹo vọ. Và cả vết chân của Norah, những dấu máu ngoằn ngoèo. Anh
đã vứt hết cả mấy tấm hình đi, cùng với phim âm bản, tất cả, nhưng
chúng vẫn ám ảnh anh. Và anh sợ rằng sẽ mãi như thế. Thật ra, anh đã
nói dối; anh đã gửi con gái họ tới một nơi khác. Những hậu quả đau
đớn sẽ còn theo mãi một sự thật tất yếu và đơn giản làm sao. Nhưng
thời gian cũng trôi qua, tính đến nay đã gần ba tháng, và Norah dường
như đã trở lại là chính mình. Nàng làm vườn, cười rộ lên mỗi khi nói