nào cơ, bà đáp, ba hôm trước, thứ Ba, lúc đấy mới sáng sớm và mẹ ra
ngoài để lấy nước, đến khi mẹ quay về nhà im ắng lắm nên mẹ biết
ngay. Con bé đi rồi. Ngừng thở rồi. Anh ôm mẹ, và không còn nghĩ
được phải nói gì nữa. Nỗi đau mà anh cảm nhận được nằm trong tận
cùng tâm can anh, và trên tất cả là cảm giác tê dại khiến anh không thể
khóc nổi. Anh choàng một tấm chăn lên vai mẹ. Anh pha cho bà một
tách trà rồi ra chuồng gà, thấy có nhiều trứng bà vẫn chưa nhặt, và anh
gom hết. Anh cho gà ăn và vắt sữa bò. Anh làm tất cả những công việc
bình thường ấy, nhưng khi anh bước vào, căn nhà vẫn âm u, không khí
im ắng, và June đã không còn.
Davey, rất lâu sau đó, mẹ anh mới cất tiếng gọi, từ cái góc tối tăm
nơi bà đang ngồi,
Con hãy trở lại trường đi. Cố mà học cái gì đó có ích
cho đời. Nghe câu ấy, anh cảm thấy giận sôi gan; anh muốn cuộc đời
của anh chỉ thuộc về chính anh, không còn bị vướng bận bởi những đau
buồn, mất mát này. Anh cảm thấy có lỗi bởi June đang nằm dưới ba tấc
đất còn anh vẫn đứng đây; anh vẫn còn sống, không khí vẫn chảy vào
rồi chảy ra từ buồng phổi của anh; và anh cảm nhận được nó, và cả
nhịp đập của trái tim anh. Con sẽ trở thành bác sĩ, anh nói, mẹ anh
không nói gì, nhưng một lúc sau bà gật đầu và đứng dậy, kéo cánh áo
len sát vào người thêm.
Davey, mẹ muốn con cầm quyển Kinh Thánh ra
đây, lên đây với mẹ rồi thề đi. Mẹ muốn con tuyên bố chính thức, và
thật rõ ràng. Rồi hai mẹ con cùng leo lên sườn đồi. Khi họ đến nơi thì
trời đã tối, đứng dưới rặng thông lao xao gió reo, bên ánh sáng lập lòe
của cây đèn dầu, anh đọc to,
Chúa là người dẫn dắt con. Mình không
muốn. Nhưng mình muốn, anh thầm nghĩ, trong khi miệng vẫn đọc.
Con muốn. Mẹ anh khóc nấc lên và họ lặng lẽ xuôi theo triền đồi trở về
nhà, ở đó anh đã viết cho bố một bức thư để báo tin. Anh gửi đi ngay
thứ Hai, ngày anh trở lại với thị trấn, với sự ồn ã và những ánh đèn rực
rỡ. Anh đứng phía sau chiếc quầy đóng bằng gỗ sồi đã bị mài mòn đến
nhẵn thín sau bao năm dãi dầu, và bỏ bức thư trắng giản dị vào hòm.