gửi tiền, anh lại gửi kèm một mẩu giấy nhắn Caroline báo cho anh biết
nơi cô sống, nhưng anh không ép cô, hay thuê một thám tử tư như cái ý
định đôi lúc nảy sinh trong đầu anh. Anh tin mình muốn tìm ra cô. Anh
tin rằng một khi anh làm được – một khi anh có thể sửa chữa mọi
chuyện – anh có thể nói với Norah sự thật.
Anh tin tưởng tất cả những điều đó, anh thức dậy mỗi sáng và đi bộ
đến bệnh viện. Anh tiến hành những cuộc phẫu thuật, chẩn đoán các
bản chụp X-quang rồi về nhà, xén cỏ ngoài sân và chơi đùa với Paul;
cuộc sống của anh đã viên mãn. Nhưng ngay cả thế, thì cứ độ vài
tháng, không hiểu vì lý do gì, anh lại choàng tỉnh và nhận ra mình vừa
mơ thấy Caroline Gill nhìn anh trân trối từ ngưỡng cửa phòng khám
hay bên kia sân nhà thờ. Bừng tỉnh, run rẩy, anh mặc quần áo và đi
xuống phòng làm việc hoặc ra buồng tối, ở đó anh soạn tài liệu hoặc
thả ảnh vào chậu hóa chất, ngắm nhìn những hình ảnh hiện dần lên
trên nền giấy trống trơn.
“Bố, bố quên không tra mấy mẫu hóa thạch à,” Paul nói. “Bố hứa rồi
mà.”
“À phải rồi,” David nói, giật mình trở về với thực tại, rồi chỉnh lại nút
thắt cà vạt. “Phải rồi, con trai. Bố hứa mà.”
Hai bố con cùng nhau đi xuống căn phòng nhỏ dưới nhà và bày
những cuốn sách quen thuộc ra bàn. Mảnh hóa thạch là một loại hoa
huệ biển, là một phần của loài sinh vật biển có bề ngoài giống như một
bông hoa. Những mảnh đá hình cúc áo xưa kia từng là những phiến đá
góp phần tạo nên những cột trụ. Anh khẽ đặt tay lên lưng Paul, cảm
nhận từng thớ thịt của thằng bé, thật ấm áp và sống động, cùng những
đốt xương sống mảnh dẻ ẩn dưới làn da nó.
“Để con đem cho mẹ xem,” Paul nói. Thằng bé vơ hết các mẩu hóa
thạch rồi chạy ào ra khỏi nhà qua cửa hậu. David rót một ly rượu và đến