nó là về nhận thức. Sự chuyển biến.”
“À, sự chuyển biến,” Howard nói. “Tôi khuyến khích chuyện đó. Rất
vui được đến ăn tối cùng anh chị.”
David và Howard lại nói chuyện trong khi Paul chạy theo những con
sóng để xua tan cái nóng, và rồi Howard rời đi. Mấy phút sau đó, đứng
trong bếp thái những lát dưa chuột cho bữa trưa, Norah nhìn theo anh
ta bước xa dần trên bãi biển, hiện ra rồi biến mất và lại hiện ra mỗi khi
tấm rèm bị gió lay động. Nàng nhớ lại vết bỏng đen thẫm trên vai,
giọng nói và cái nhìn xuyên thấu tâm can của anh ta. Nước tuôn ào ào
từ vòi sen Paul đang tắm, và có tiếng giấy sột soạt rất khẽ khi David sắp
xếp các tấm ảnh trong phòng khách. Dường như qua mỗi năm, anh lại
càng bị ám ảnh thêm, anh luôn nhìn thế giới – cũng như nhìn nàng –
như từ phía sau ống kính máy ảnh. Đứa con gái đã mất vẫn còn quanh
quẩn giữa hai người; cuộc sống đã nhào nặn họ theo sự vắng mặt của
nó. Đôi khi, Norah thậm chí cảm thấy băn khoăn, rằng có phải chính sự
mất mát đó là lý do chính giữ họ bên nhau. Nàng đổ dưa chuột thái lát
vào bát salad rồi bắt đầu nạo vỏ một củ cà rốt. Bóng Howard phía xa
giờ chỉ còn nhỏ như đầu kim, rồi biến mất hẳn. Đôi tay anh ta to, nàng
vẫn nhớ, lòng bàn tay và lớp biểu bì trắng nhợt, trái ngược hẳn với làn
da rám nắng.
Làn da rất đẹp, anh ta đã nói vậy, và đôi mắt không rời
nàng.
Sau bữa trưa, David nằm ngủ lơ mơ trên võng còn Norah nằm dài
trên chiếc giường kê dưới cửa sổ. Một cơn gió biển thổi vào; nàng bỗng
cảm thấy tràn đầy sức sống, dường như nàng được giao hòa với bờ cát
và biển cả qua cơn gió này. Howard chỉ là một người bình thường, khá
gầy gò và đầu bắt đầu hói, dẫu vậy anh ta vẫn có một sức lôi cuốn thật
kỳ lạ, có lẽ nó nảy sinh từ nỗi cô đơn và những ao ước thầm kín trong
nàng. Nàng tưởng tượng ra Bree, đùa nghịch với mình, miệng cười vui.