viên nhỏ với vọng lâu và ngôi nhà đối diện nơi nó đã sống khi mới chào
đời, mẹ không thích nó lai vãng ở khu vực này hay đến nhà Duke chơi.
Nhưng chết một nỗi, bà chẳng kè kè mãi ở bên cạnh nó được, và miễn
là bài tập về nhà được hoàn thành, đã xong, cắt cỏ và tập piano một
tiếng đồng hồ, cũng xong nốt, thế là thằng bé được tự do.
Những gì mẹ không thấy sẽ không làm bà đau lòng. Những gì bà
không biết.
“Lão ta chắc sôi tiết lắm nhỉ,” Duke nói. “Lão lái tàu ấy.”
“Ờ,” Paul nói. “Tức lộn mề ấy chứ.”
Thằng bé thích chửi thề, và ký ức về làn gió nóng phả lên mặt nó,
cơn gió làm dịu bớt, dù chỉ trong giây lát, cơn thịnh nộ âm thầm trong
lòng nó. Nó đã chạy dọc bờ biển buổi sáng hôm ấy ở Aruba với trái tim
thảnh thơi, cảm giác khoan khoái khi lớp cát ẩm trải dài sát mép nước
dịu dàng áp lên gan bàn chân nó, khiến bắp chân thêm săn chắc.
Khoan khoái, còn vì chuyến đi câu cùng với bố đã thất bại. Bố nó thích
câu cá, thích ngồi hàng tiếng đồng hồ im lặng trên thuyền hoặc trên
bến, quăng dây câu đi rồi lại quăng lại và – chốc chốc – lại điểm một
pha kéo cá gay cấn. Paul cũng đã từng yêu thích trò chơi đó, khi còn bé,
không hẳn là vì những nghi thức của việc câu cá mà vì cơ hội được ở
bên bố. Nhưng khi nó lớn hơn, những chuyến đi câu dần biến thành cái
gì đó như là nghĩa vụ, giống như một số việc khác bố nó đã vẽ ra vì ông
không nghĩ được thứ gì khác để làm. Hay có lẽ vì việc đó sẽ khiến hai
bố con gắn bó hơn; Paul nghĩ chắc bố đã đọc được điều đó trong một
cuốn cẩm nang dành cho các bậc cha mẹ. Nó ngộ ra được thực tế của
cuộc sống từ một chuyến đi nghỉ, ngồi chết gí trên thuyền giữa một cái
hồ ở Minnesota trong khi bố nó, da đỏ au lên vì cháy nắng, thao thao
về quá trình sao chụp ảnh. Dạo gần đây, tương lai của Paul là chủ đề ưa
thích của bố, những ý tưởng của ông trong mắt nó cũng chả thú vị hơn
cái mặt nước phẳng lặng lấp lánh đang trải dài trước mặt là mấy.