quanh người nó.
Không phải lỗi của con đâu, bà nói giọng chắc nịch.
Chẳng liên quan gì đến con cả.
Nhưng lúc đấy nó không thực sự tin lời mẹ, đến bây giờ cũng không.
Nếu bố giam mình trong buồng tối hàng đêm còn mẹ làm việc đến bỏ
cả bữa tối trong hầu hết các ngày, rồi đến kỳ nghỉ của gia đình, bà vứt
bỏ quần áo và chui vào căn nhà gỗ của những người đàn ông lạ, thì là
do lỗi của ai đây? Không phải của em nó, em nó đã chết từ lúc mới ra
đời và rời xa cái không khí câm lặng này rồi. Tất cả tạo thành một cục u
trong bụng nó, mỗi sáng dậy còn bé như một đồng xu rồi lớn dần lên
trong ngày, khiến bụng nó nhức nhối. Rốt cuộc, nó vẫn còn sống. Nó
vẫn đang ở đây. Chắc chắn bổn phận của nó là phải bảo vệ tất cả bọn
họ.
Duke hiện ra trên ngưỡng cửa, và Paul ngừng chơi.
“Bọn nó sắp đến rồi, thằng Joe ấy,” thằng kia báo. “Mày có tiền mặt
chứ hả.”
“Có,” Paul đáp. “Đi theo tao.”
Hai thằng ra ngoài theo lối cửa hậu, bước xuống những bậc thềm bê
tông ẩm ướt rồi leo lên cầu thang bên dẫn tới một căn phòng lớn mở
cửa phía trên ga ra. Căn phòng này có những ô cửa sổ cao ở khắp bốn
mặt tường, vào ban ngày hướng nào của phòng cũng tràn ngập ánh
sáng. Một căn buồng tối, không có cửa sổ, được xây phía trong giống
như một nhà kho ở ngay cạnh lối ra vào. Vài năm trước, khi những tác
phẩm của bố bắt đầu thu hút sự chú ý, ông đã xây căn phòng này. Giờ
ông dành phần lớn thời gian rảnh rỗi ở đây, tráng phim, làm thí nghiệm
với ánh sáng. Hầu như không có ai khác lai vãng lên đây – riêng mẹ nó
thì không bao giờ. Đôi khi bố cũng mời Paul lên, thực ra thằng bé mong
những dịp như thế đến cháy ruột ra, và nó xấu hổ vì nỗi khao khát ấy
của mình.