nhưng vẫn trong tầm nghe của mẹ ông, bởi ông bố khốn khổ vừa mất
đứa con trai:
Tại sao lại là thằng con tôi? Nó lành lặn, nó khỏe mạnh.
Sao không phải đứa con gái ốm yếu kia? Nếu có đứa nào phải chết, thì
sao không phải con bé kia?
Ông nhắm mắt lại. Yên ắng quá. Ông nghĩ đến tất cả những thanh
âm vẫn tràn ngập trong cuộc sống của mình ở Lexington: tiếng bước
chân, tiếng nói trên hành lang, tiếng chuông điện thoại reo, quay
cuồng trong tai ông; tiếng máy nhắn tin kêu bíp bíp giữa tiếng đài phát
thanh trong lúc ông lái xe; và ở nhà, lúc nào cũng vậy, Paul dính chặt
lấy chiếc đàn ghi ta còn Norah không rời điện thoại, dây điện thoại
quấn quanh cổ tay trong lúc bà nói chuyện với khách hàng; và đến nửa
đêm lại có thêm những cuộc gọi khác, mọi người cần có ông ở bệnh
viện, ông phải đến. Và rồi, vùng dậy trong bóng đêm, trong giá lạnh,
ông lao đi.
Không phải ở đây. Ở đây chỉ có tiếng gió lay động, những chiếc lá
già và, xa xa, tiếng nước chảy róc rách khe khẽ của con suối bên dưới
lớp băng. Một cành cây đập vào bức tường phía ngoài. Lạnh run, ông
hơi oằn người lên, tì bằng gót chân và phần lưng trên để có thể cuộn
tấm chăn lại và lèn chặt quanh người. Những tấm ảnh nhét trong túi
khẽ chọc vào ngực khi ông trở mình để kéo sát chăn vào thêm. Tuy vậy,
ông vẫn run lẩy bẩy mất vài phút, vì cái giá lạnh và tàn dư của quãng
đường dài vừa đi, rồi khi nhắm mắt lại ông nghĩ đến hai con sông giao
hòa, hợp làm một, và dòng nước đen cuộn xoáy. Không phải rơi mà là
nhảy: đó là ý niệm đã treo lơ lửng ở kia trong thế thăng bằng.
Ông nhắm mắt lại. Chỉ vài phút thôi, để nghỉ ngơi. Bên dưới mùi
không khí ẩm ướt và nấm mốc, dường như có mùi hương gì đó ngòn
ngọt tựa đường. Mẹ ông đã mua đường dưới thị trấn, và ông gần như
vẫn còn cảm thấy vị chiếc bánh sinh nhật trong miệng mình, màu vàng
và rất đặc, béo ngậy và ngọt lịm đến độ tưởng như các mùi vị đang nổ
tung trong miệng ông. Những người hàng xóm từ dưới núi lên, tiếng