vài giờ qua. “Bree à, chị ước gì được nhìn thấy con bé. Mọi người sẽ
nghĩ như thế là gớm ghiếc, nhưng chị vẫn ước được thấy nó. Ước gì chị
được chạm vào nó, chỉ một lần thôi cũng được.”
“Chẳng có gì là gớm ghiếc đâu chị,” Bree dịu dàng. “Em nghĩ ý
nguyện đó là hoàn toàn chính đáng.”
Sau đó là một khoảng im lặng, cho tới khi Bree phá vỡ nó một cách
vụng về, ngập ngừng, bằng cách đưa cho Norah miếng bánh phết bơ
cuối cùng.
“Chị không đói,” Norah đáp dối.
“Chị phải ăn đi,” Bree ép. “Đằng nào chị chả sụt cân. Đấy là một
trong những lợi ích to lớn không được nhắc đến của việc cho con bú
đấy nhé.”
“Không là thế nào,” Norah nói. “Em chả nhai nhải suốt còn gì.”
Bree cười lớn. “Chắc vậy quá.”
“Thành thực mà nói,” Norah vừa nói, vừa giơ tay cầm cốc nước lên.
“Chị mừng vì có em ở đây.”
“Ôi dào,” Bree nói, vẻ hơi ngượng nghịu. “Em còn ở đâu được nữa?”
Cái đầu của Paul nằng nặng âm ấm, mớ tóc dày mềm như tơ của
thằng bé cọ nhẹ lên cổ nàng. Norah tự hỏi không biết nó có nhớ đứa
em sinh đôi không, nó còn nhớ cái hình hài giờ đã không còn tồn tại
trên đời, người bạn đồng hành thân thiết suốt quãng thời gian vô cùng
ngắn ngủi trong đời nó hay không? Liệu cảm giác mất mát có theo nó
suốt đời? Nàng vuốt nhẹ lên đầu thằng bé, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ,
thoáng thấy vầng trăng tròn xa xa đang nhạt dần sau những rặng cây,
chỉ còn là một vệt lờ mờ trên nền trời xanh.