Norah định bênh chồng nhưng lại thôi. Nàng áp chặt hai tay lên má.
“Ôi, Bree ơi. Sao lại là tối nay cơ chứ?”
“Thế thì tệ quá,” Bree tán đồng. Mặt Norah cau lại, nàng cảm giác
môi mình mím chặt, còn Bree thì cười ầm lên. “Ôi, thôi nào. Nói thật
đi. Có lẽ đấy không phải là lỗi của David. Nhưng chị lại cảm thấy đó
chính là lỗi của anh ấy, đúng chưa?”
“
Không phải lỗi của anh ấy mà,” Norah nói. “Có một vụ tai nạn.
Nhưng phải. Em nói đúng. Chị nghĩ thế đấy – thối lắm. Thối không chịu
được, sướng chưa?”
“Em biết,”giọng Bree bỗng dịu dàng đến không ngờ. “Nghĩ thế thì tệ
thật. Em rất tiếc, chị à.” Rồi cô nhoẻn miệng cười. “Này, em mang quà
cho chị với David đấy. Có khi lại làm chị vui lên ấy chứ.”
Nói rồi cô chuyển sang bế Paul trên một tay và khua khoắng chiếc
túi thêu to bự, lôi ra mấy quyển sách, một thanh kẹo, một đống tờ rơi
quảng cáo buổi biểu diễn sắp tới, một chiếc kính mát đựng trong hộp
da sờn cũ, và cuối cùng là một chai rượu. Cô rót cho hai chị em mỗi
người một cốc đầy thứ nước óng ánh như hồng ngọc.
“Vì tình yêu,” nói rồi cô đưa Norah một ly và giơ cao ly kia. “Vì hạnh
phúc và niềm vui vĩnh cửu.”
Họ cười và cùng cạn ly. Rượu nồng hương quả mọng, thoang thoảng
mùi gỗ sồi. Nước mưa nhỏ tong tong trên máng xối. Nhiều năm về sau
Norah vẫn còn nhớ mãi cái đêm hôm ấy, nhớ nỗi thất vọng chán
chường, nhớ Bree đã mang đến những món quà lấp lánh từ một thế
giới khác; nhớ đôi ủng sáng bóng, đôi hoa tai, sức sống mơn mởn như
một thứ ánh sáng của cô. Trong mắt Norah, những thứ ấy thật đẹp, và
cũng khó với tới biết bao. Phiền muộn – nhiều năm sau Norah mới
hiểu ra nàng đã sống một cuộc đời tăm tối thế nào – nhưng không ai
thèm đả động đến chuyện đó vào năm 1965 cả. Thậm chí chẳng có ai