trang nằm ở vùng đông bắc London này. Một cánh đồng chết chóc, chẳng
phải chỉ nằm sát một tỉnh lộ mà còn rất hoang vắng giữa những cánh rừng.
Nhìn mỏi mắt vẫn không thấy ngôi làng nào. Đã từ lâu, người ta không đưa
người về đây chôn nữa. Những linh hồn đang an nghỉ ở đây là những binh
lính từ thời đại chiến thế giới lần thứ hai, và nghĩa trang trông cũng tiêu
điều cũ kỹ y như vậy. Dưới những hàng cây ướt đẫm buồn rầu, những hàng
bia mộ màu xám đơn giản trông càng u ám, tối tăm hơn. Nhiều bia mộ đã
bị dây leo quấn đầy, rất khó phát hiện. Trong nghĩa trang không có đường,
người ta đơn giản đạp lên cỏ và cây dại mà đi. Những ai tới đây bằng xe
đều phải đậu ở ngoài. Cả người lái với chiếc xe xúc nhỏ cũng đã làm như
vậy. - Họ đã đến rồi. - Sarah Goldwyn nói. - Nhưng ta cũng chưa bị muộn
lắm đâu.
- Tôi cũng nghĩ vậy. Một nhóm nhỏ đàn ông đứng xung quanh chiếc xe
xúc đất, nhìn lưỡi xẻng ngoạm vào lòng đất. Trong đó có hai người mặc
cảnh phục. Một người đã nghe thấy tiếng chúng tôi. Anh ta quay lại, giơ tay
ra.
- Các ngài làm ơn đi cho, ở đây chẳng có việc gì để nhìn cả.
- John Singlair của Scotland Yard. - Tôi tự giới thiệu.
- Xin lỗi ngài, tôi không biết...
- Không sao! - Tôi giới thiệu bà Sarah rồi hỏi xem công việc đã tới đâu.
- Chúng tôi vừa mới bắt đầu.
- Vậy là chúng tôi đến đúng lúc.
- Tôi cũng nghĩ vậy, thưa ngài. Sarah và tôi hơi chen lên phía trước để
nhìn thấy nấm mộ. Đây không phải là mộ một người lính. Ngôi mộ này còn
mới. Có người đã lợi dụng nét hoang vắng của nghĩa trang để chôn trộm.
Những người đàn ông đứng đó đã nghe được đoạn trao đổi giữa viên cảnh
sát và tôi. Họ quay đầu nhìn hai chúng tôi nhưng không ai lên tiếng.
Tiếng xe đào đất rít lên khô khốc. Những âm thanh khó chịu, lặp đi lặp
lại, như đâm vào màng nhĩ. Cả khuôn mặt bà Sarah cũng nhăn lại trong một
nụ cười chua chát. Chúng tôi đứng gần sát ngôi mộ, chiếc hàm thép của
xẻng xúc đất ngày càng ngoạm sâu hơn xuống dưới. Nó dứt từng tảng đất
ướt ra khỏi lòng đất rồi ném chúng sang bên.