dốc nơi có một chiếc xe hơi đen bóng lộn đang chờ để đưa ông ta trở về
Bắc Kinh. Nếu chúng tôi chạy ra ngoài nhìn xuống chân đồi chúng tôi có
thể thấy tận cuối một cái lũng bằng phẳng có đậu chiếc xe màu đen, nó
chạy xuôi theo con đường hẹp làm một đám bụi bốc lên.
Mùa đông đến gần, các nhà khoa học trở nên vội vã hơn trước khi đất
cát trở nên quá cứng và mùa đào bới đi đến chỗ kết thúc. Họ để cho một vài
cô gái trèo xuống phụ giúp bỏ đất đá đã đào lên vào những cái hộp hoặc tổ
lại những đường vôi trắng, hoặc cẩn thận sàng lọc lại những gì đã được
sàng lọc đến mười lần rồi. Chúng tôi không được phép đi vào bất cứ chỗ
nào có chăng giây thừng, đó là chỗ xương người đã được tìm thấy. Đối với
một đôi mắt chưa từng trải rất dễ nhầm xương người với một cục đá hay
một mảnh gốm, nhưng tôi phân biệt được sự khác nhau ấy nhờ những lần
tôi đi kiếm xương với dì Báu. Tôi cũng biết được rằng xương người Bắc
Kinh là xương không phải của một người mà là nhiều người – đàn ông, đàn
bà, trẻ con, trẻ sơ sinh. Những mảnh xương rất bé, thậm chí không đủ để
ghép thành một người. Tôi không nói điều này với bạn bè, tôi không muốn
khoe khoang. Cũng như các cô gái khác, tôi sẽ giúp một tay khi nào các
nhà khoa học yêu cầu, ở những chỗ chỉ có xương động vật, sừng hươu hoặc
là mai rùa.
Tôi nhớ một lần con trai thầy Phan tặng tôi một lời khen đặc biệt "Em
là một người thợ cẩn thận", Khải Tĩnh nói. Sau cùng sàng đất tỉ mỉ là việc
làm ưa thích của tôi. Nhưng khi thời tiết trở nên lạnh cóng, những ngón tay
và đôi má của chúng tôi không còn cảm giác nữa. Thế là kết thúc cả công
việc cùng những lời ngợi khen.
Công việc thích thú tiếp theo của tôi là dạy dỗ các em nhỏ. Đôi khi tôi
dạy chúng học vẽ. Tôi chỉ cho những học trò nhỏ dùng cây cọ để vẽ một cái
tai, đuôi hoặc ria mèo. Tôi vẽ những con ngựa, sếu, khỉ, thậm chí cả loài hà
mã. Tôi cũng giúp các em học sinh rèn luyện chữ viết và đầu óc. Tôi nói
với chúng những điều mà dì Báu đã dạy dỗ tôi về việc qua nét chữ người ta