mướn cầm đuốc soi mặt chúng tôi, nắn chân nắn tay từng người. Họ hỏi:
"Có biết làm việc này không ? Làm việc kia không ?" Họ và chúng tôi thỏa
thuận giá cả, thường công lao động một ngày rất thấp, nếu làm thợ đấu thì
quy ra thóc chỉ độ hai cân rưỡi đến ba cân một ngày, thợ cấy ít hơn: Chỉ độ
một cân hai đến một câm tám. Tôi hay nhận những việc ngoài đồng: Cấy,
gặt, gieo mạ, bón phân. Tôi không thích nhận việc trong nhà. ở ngoài đồng
không khí thoáng đãng hơn, trên đầu tôi là bầu trời tự do, tôi không vướng
những mối liên hệ nào đấy đối với con người. Những người thuê mướn tôi
cũng chẳng giàu có gì, họ cũng phải làm quần quật, đôi khi họ phải nhịn ăn
để dành trả công cho thợ.
Không khí u uất, tù đọng của làng quê làm tôi tái tê cảm giác chua xót.
Mọi người rối rít, cuống cuồng để kiếm miếng ăn. Những định kiến, tập tục
thật nặng nề. Tôi đã thấy tinh thần gia trưởng hủy hoại bao nhiêu số phận
con người. Tôi cũng thấy những ngộ nhận giới tính và đạo đức giết chết vẻ
diễm lệ trên các khuôn mặt thiếu nữ. Rất ít thanh niên. Ngoài đồng chỉ có
các ông bà già, phụ nữ và trẻ em thất học làm việc.
Sang tháng ba, công việc đồng áng vãn bớt, tôi không có việc làm
thường xuyên. Có nhiều ngày tôi phải nhịn đói. Tôi đi trong đám sương mù
bàng bạc dọc bờ đê. Những hạt bụi nước li ti giăng ở trước mặt, ở bên phải,
ở bên trái, ở sau lưng. Gió hun hút thổi. "Cái đói cái rét bằng nhau". Người
xưa nói thật chẳng ngoa chút nào. Một lần tôi nhìn thấy có ông lão ăn mày
chết đói ở bên vệ đê. Một nỗi lo sợ mơ hồ thoáng dậy trong tôi. Tôi bắt đầu
nghĩ đến cái chết, điều này trước đây chưa bao giờ tôi nghĩ đến. Ðói. Rét.
Nỗi cô đơn như gió quất vào mặt. Lòng tôi cồn cào, đau đáu một nỗi khắc
khoải hướng về Mẹ Cả, con gái thủy thần. Nàng là ai ? Nàng xấu hay đẹp ?
Nàng ở đâu, góc biển chân trời nào ?
Tôi bắt đầu hình dung thấy nàng. Nàng hiện ra rực rỡ. Những đường nét
trên khuôn mặt nàng rõ ràng, đôi lông mày thanh tú, quả cảm. Thoạt nhìn,
nàng thậm chí đen đúa và lãnh cảm. Nàng không đẹp. Khoảng cách giữa tôi