tôi đã từng một lần gặp lân. Hồi tôi còn nhỏ cụ thường kể lại chuyện đó cho
nghe."
"Ồ, vậy à? Thế cụ có bắt kỳ lân bằng dây cương vàng không?"
"Không, cụ không có dây cương vàng. Mà cũng chẳng cần phải dây
cương vàng mới bắt được lân. Đó là chuyện cổ tích! Chỉ cần lòng mình
trong sạch là đủ!"
"Phải, phải." Chàng thợ săn ít tuổi hơn cười khúc khích, "Thế cụ bà có
cưỡi kỳ lân không? Cưỡi không yên cương, tất nhiên lãng đãng dưới rừng
cây, như một nữ sơn thần thuở khai thiên lập địa."
"Cụ tổ mẫu tôi vốn sợ những con vật lớn," người đi săn thứ nhất trả lời,
"Cụ không cưỡi con lân, nhưng cụ ngồi thật yên lặng, và con lân ngả đầu
vào lòng cụ thiu thiu ngủ. Cụ tổ mẫu tôi cứ ngồi yên bằn bặt như vậy cho
đến khi kỳ lân thức giấc."
"Thế kỳ lân giống cái gì? Người xưa cho rằng kỳ lân vốn cực kỳ dữ tợn,
mình ngựa đầu hươu, chân voi, đuôi gấu; khi rống lên, tiếng trầm, có một
sừng màu huyền dài khoảng vài tấc, theo người Trung Hoa thì..."
"Cụ tổ mẫu tôi chỉ nói rằng kỳ lân tỏa ra mùi hương thơm lắm. Cụ vốn
không ưa mùi bất kỳ một con vật nào, kể cả mèo hay bò, cụ kêu là mùi
chúng hoang dại. Vậy mà cụ ưa mùi kỳ lân. Đã có lần cụ khóc khi nhắc lại
chuyện đó với tôi. Đã đành cụ già lắm rồi và người già thường dễ mủi lòng
khi hoài niệm đến cái gì thuở còn trẻ.
"Thôi hãy quay trở lại, chúng ta sang săn một khu rừng khác," người thợ
săn thứ hai đột nhiên nói. Lân vội lẩn ngay vào một bụi rậm, đợi cho hai
người quay ngựa và phóng xa được một quãng mới lại tiếp tục lướt theo.
Hai người yên lặng cho ngựa chạy đều đến gần ven rừng thì người thợ săn
thứ hai lên tiếng, "Tại sao những linh vật đó lại mất đi, anh có biết không,
nếu quả thật xưa có chúng?"
"Nào ai biết được. Thời thế xoay vần! Liệu anh có cho rằng thời thế này
hợp với kỳ lân?"
"Dĩ nhiên là không rồi, nhưng tôi tự hỏi trước chúng ta có ai tự hào là
thời mình hợp với thời kỳ lân xuất hiện? Nay nhớ lại thì hình như tôi đã có