Tường treo những dải băng rôn phủ kín dấu hiệu Kabbalah, rất nhiều chim
cú đủ kiểu, bọ hung và cò quăm, những vị thần thánh phương Đông không rõ
nguồn gốc. Gần bức tường phía sau có một đài cao, quanh sân khấu là hàng đuốc
rừng rực cháy được đỡ bằng những súc cây thô, ở phía sau là một bàn thờ với tấm
trang trí hình tam giác và tượng các thần Isis, Osiris. Vây tròn khắp căn phòng là
một hàng những hình thần Anubis và có một bức chân dung Cagliostro (đó khó
có thể là ai khác, phải không?), một tượng xác ướp mạ vàng theo mẫu Cheops,
hai chân nến năm nhánh, một chiếc cồng được đỡ bởi hai con rắn đang chồm lên,
trên bục diễn thuyết, một bục giảng kinh phủ vải trúc bâu in chữ tượng hình, và
hai vương miện, hai giá ba chân, một quan tài đá nhỏ dễ di chuyển, một ngai
vàng, một chiếc phô tơi giả thế kỷ mười bảy, bốn chiếc ghế lệch bộ hợp với tiệc
thết đãi tay cảnh sát trưởng Nottingham
, rồi nến cây, dây nến, nến Tạ ơn, tất cả
bập bùng đầy ma mị.
Dầu sao đi nữa, chúng ta hãy tiếp tục với câu chuyện: bảy lễ sinh bận áo
thầy tu màu đỏ cầm đuốc tiến vào, theo sau là chủ lễ, hiển nhiên là người đứng
đầu Picatrix - anh ta vui hưởng cái tên rất phổ thông là Brambilla - bận áo lễ hai
màu hồng và ô liu. Theo sau chủ lễ là một tín đồ mới, hay thanh đồng, và sáu
người giúp lễ bận áo trắng, tất cả đều nom giống diễn viên Ninetto Davoli, nhưng
đầu đội infula
, của Chúa, nếu anh nhớ lại các nhà thơ của chúng ta.
Brambilla đội lên đầu một vương miện hình bán nguyệt, nâng một thanh
gươm tế lên, vẽ những biểu tượng ma thuật lên đài cao để vời về nhiều thiên thần
có tên kết thúc bằng “el”. Đến đây tôi lại mơ hồ nhớ tới những thần chú giải Xê-
mít trong mật thư của Ingolf, nhưng chỉ trong một khắc thôi, bởi vì tôi lập tức bị
phân tâm bởi một điều bất thường. Những micrô trên bệ nối với một bộ dò sóng
đáng lẽ phải bắt những sóng ngẫu nhiên trong không gian nhưng hẳn là người
điều khiển đã bắt nhầm bởi vì ban đầu chúng tôi nghe thấy tiếng nhạc disco và rồi
thì đài Matxcơva chen vào. Brambilla mở chiếc quách, lấy một cuốn phù chú ra,
khua một bình hương và kêu lên, “Lạy Chúa Con, nước Cha trị đến.” Hành động
ấy dường như đạt được hiệu quả gì đó bởi vì đài Matxcova tắt ngóm, nhưng rồi,
trong khoảnh khắc thần bí nhất, nó lại vang lên, với một bài Cô-dắc lè nhè, loại
mà họ vừa nhảy vừa ngoáy mông cọ xuống đất ấy. Brambilla viện tới cả
Clavicula Salomonis
, mạo hiểm tính mạng đốt một tấm giấy da trên một cây
đuốc, vời về vài vị thần thánh của ngôi đền ở Karnak, nóng nảy đòi được đặt trên
khối đá lập phương của Yesod, và một mực vời gọi “Người quen 39”, người hẳn