tìm kiếm viết trên cánh cửa tồi tàn trổ giữa một bức tường cao. Không thấy
chuông hay búa gõ cửa, vậy nên tôi mở chốt, đẩy cửa rồi bước vào.
Nếu khoảnh sân đã đủ khiến tôi ngạc nhiên, thì nơi đây phải là một kỳ
quan, một giấc mộng. Tại đây, chỉ cách con phố Fleet ồn ào có mấy bước
chân, tôi đứng trong một khu vườn kiểu cổ có tường cao vây quanh mà khi
khép cánh cửa sau lưng, tôi trở nên tách biệt hoàn toàn với tất thảy toan
tính của thế giới thành thị bên ngoài. Tôi đứng nhìn xung quanh với cảm
giác thích thu pha lẫn kinh ngạc. Từng hàng cây được ánh nắng nhuộm
vàng, những bồn hoa rực rỡ màu sắc. Đậu Lupin, hoa mõm chó, sen cạn,
mao địa hoàng mọc thành từng khóm nhọn, trong khi đó những đóa thục
quỳ kỳ vĩ phủ kín mặt đất phía trước. Đôi bướm vàng bay dập dờn, chẳng
buồn để tâm đến một chú mèo tròn trịa và trắng muốt tới mức khó tin đang
đuổi theo chúng bằng cách nhảy qua những bồn hoa và chộp hai bàn chân
trắng như tuyết vào nhau một cách vô ích. Cảnh vật phía sau cũng không
kém phần lộng lẫy: Một căn nhà cổ uy nghiêm với mái nâu cổ kính có lẽ đã
nhìn ra khu vườn này từ thời hẵng còn những chàng công tử ăn vận diêm
dúa được khiêng bằng kiệu qau khoảnh sân, trong khi Izaak Walton
lành còn rón rén bước ra khỏi cửa hiệu của mfinh trên phố Fleer, đi dọc
đường Fetter tới câu cá ở Temple Mills.
Quá kinh ngạc với khung cảnh nơi đây, tôi chỉ sực tỉnh khi đặt tay lên cái
núm dưới cùng của một hàng dây chuông. Mãi khi tiếng chuông trời đánh
đó vang lên và thôi thúc tôi trở lại với công việc, tôi mới nhìn thấy bên
dưới hàng chuông là một tấm biển bằng đồng ghi chữ: “Bà Oman.”
Cánh cửa đột ngột mở ra, một phụ nữ thấp bé trạc tuổi trung niên xuất
hiện, nhìn tôi chằm chặp từ đầu xuống chân.
“Tôi đã rung chuông nhầm nhà sao?” Tôi hỏi, và đó là câu hỏi ngốc ơi là
ngốc, đến chính tôi cũng phải thừa nhận thế!
“Làm sao mà tôi biết được?” Bà ta nói, “Chắc anh nhầm thật đấy. Đó là
việc lũ đàn ông các anh thường làm mà: Rung chuông nhầm nhà rồi xin
lỗi.”