luận này càng được củng cố bới lớp hóa ngà chỗ đầu xương đùi phải và lớp
hóa ngà tương ứng ở khớp hông bên phải. Khi đã đo đạc xong, tôi kiểm tra
tỉ mỉ các mẩu xương, xem xét kỹ càng có bất kỳ dấu hiệu nào Thorndyke
đã dặn không. Nhưng lần nào cũng vậy, tôi chẳng thu được kết quả. Thật
đáng buồn và thất vọng, tất cả chúng đều bình thường.
“Chà, anh đã thu được gì chưa?” Viên hạ sĩ phấn chấn hỏi khi tôi gấp
cuốn sổ tay và đứng thẳng lên, “Xương của ai đây? Anh có nghĩ đó là của
ông Bellingham không?”
“Tôi sẽ rất khổ tâm nếu phải nói đây là xương của ai.” Tôi đáp, “Xương
nào mà chả thế.”
“Tôi cũng nghĩ vậy.” Anh ta đồng tình, “Nhưng tôi nghĩ sau khi đã đo
đạc và ghi chép tỉ mỉ đến vậy, hẳn anh đã đi đến một kết luận cụ thể nào
đó.” Rõ ràng anh ta rất thất vọng về tôi, và ngay cả tôi cũng thất vọng với
chính mình khi so sánh những hướng dẫn cụ thể của Thorndyke với kết quả
nhỏ nhoi mà mình thu được trong cuộc khám nghiệm. Những khám phá của
tôi có ý nghĩa tới đâu? Việc điều tra có thể tiến triển thế nào dựa trên mấy
ghi chú ít ỏi của tôi trong cuốn sổ tay chứ?
Những mẩu xương có vẻ là của một người đàn ông vạm vỡ nhưng không
tới mức quá cơ bắp, trên ba mươi tuổi, nhưng nhiều hơn bao nhiêu thì tôi
không nói được. Chiều cao của ông ta, tôi đoán vào khoảng năm feet tám
inch, nhưng những đo đạc của tôi sẽ giúp Thorndyke ước lượng được chính
xác hơn. Còn lại, những mẫu xương này chẳng còn gì đáng chú ý. Không
có dấu hiệu bệnh tật nói chung, hay trên từng bộ phận không thấy có chấn
thương mới hoặc cũ nào, không có gì khác thường, và, việc cắt xẻ đã được
thực hiện cẩn thận đến nỗi chẳng có lấy một vết xước trên bề mặt phần bị
tách rời. Không hề thấy chất sáp mỡ (một chất trơn giống như sáp thường
thấy ở những xác chết phân hủy chậm trong môi trường ẩm ướt), dấu hiệu
mờ nhạt duy nhất của phần mềm là một thứ nhìn giống như giọt keo - phần
còn lại của gân ở đầu khuỷu tay phải.