ý. Nhưng ông ta chỉ được nhìn thấy lần cuối khi ở một trong hai nơi đó,
trong khi những bộ phận thi thể thì lại được tìm thấy ở cả hai nơi. Một lần
nữa, người bạn uyên bác của tôi cỏ vẻ như đã chứng minh quá đà.
Nhưng tôi sẽ không lãng phí thời gian của quý vị thêm nữa. Tôi xin nhắc
lại, để có thể minh chứng được rằng người lập di chúc đã chết hay chưa,
cần phải có bằng chứng rõ ràng cụ thể. Tại đây chưa một bằng chứng nào
như vậy được đưa ra. Vì vậy, theo tôi người lập di chúc có thể quay trở lại
bất kì lúc nào và có quyền giữ nguyên vẹn tài sản, tôi đề nghị các quý ngài
đưa ra phán quyết để đảm bảo công lí mà bất cứ ai cũng có quyền được
hưởng cho người đàn ông này.”
Khi ông Heath kết thúc bài phát biểu, ông thẩm phán cất lời, mở mắt ra
cứ như vừa tỉnh dậy sau một giâc ngủ sảng khoái, đôi mắt lanh lợi, sắc sảo
khác thường lộ ra khi hai mí mắt lờ đờ kia đã được vén lên. Ông ta bắt đầu
đọc lại một phần bản di chúc và vài ghi chú có lẽ đã được ông ta ghi chép
theo một cách kì diệu nào đó với dôi mắt nhắm nghiền, sau đó lật lại các
bằng chứng và các lập luận của luật sư hai bên để giúp ban bồi thẩm đưa ra
quyết định.
“Trước khi cân nhắc các bằng chứng, thưa các quý ông…” Ông ta cất
tiếng, “Tôi cần phải nói vài lời về những khía cạnh chung của vụ việc
chúng ta đang xem xét.
Nếu một người ra nước ngoài hoặc biến mất khỏi nhà và nơi thường trú,
do đó vắng mặt trong một khoảng thời gian dài, việc công nhận người đó
đã chết chỉ có thể được tiến hành sau bảy năm tính từ thời điểm cuối cùng
mà người ta còn nghe được bất kì tin tức nào về người này. Như vậy có
nghĩa là, sự mất tích hoàn toàn của một người trong bảy năm đem lại chứng
cứ để công nhận giả định người đó đã chết, và giả định này chỉ được bác bỏ
khi có bằng chứng cho thấy người đó vẫn còn sống trong khoảng thời gian
bảy năm này. Nhưng trong trường hợp ngược lại, để công nhận một người
đã chết sau khi mất tích trong một khoảng thời gian ngắn hơn bảy năm, cần
phải có những bằng chứng có sức thuyết phục rất cao cho thấy người đó đã