chết. Tất nhiên, việc giả định bản thân nó đã trái ngược với minh họa một
cách cụ thể, nhưng dù sao đi chăng nữa, những bằng chứng trong trường
hợp này cần phải chứng minh được cực kì chắc chắn rằng người đó đã chết,
và có lẽ tôi không cần phải nhắc rằng thời gian biến mất càng ngắn, bằng
chứng càng cần phải thuyết phục.
Đối với vụ việc hiện tại, người lập di chúc John Bellingham vắng mặt
chưa quá hai năm. Đó là một khoảng thời gian khá ngắn, chưa thể vội đưa
ra giả định ông ta đã chết. Tuy nhiên, có những vụ việc thời gian mất tích
còn ngắn hơn mà tòa đã công nhận cái chết và vậy là công ty bảo hiểm phải
chi trả, nhưng trong các vụ việc đó, những bằng chứng ủng hộ khả năng
người mất tích đã chết đều vô cùng thuyết phục.
Người lập di chúc trong vụ đó là một thuyền trưởng, sự biến mất của ông
ta đi kèm với sự biến mất của chiếc thuyền và toàn bộ thủy thủ trên tàu
trong chuyến đi từ London đến Marseilles. Việc con tàu bị chìm cùng toàn
bộ thủy thủ đoàn là cách giải thích hợp lí duy nhất sự biến mất này, khi ấy,
dù với sức thuyết phục kém hơn việc minh họa cụ thể, các chi tiết này đã
đem lại chứng cứ quá rõ ràng để dẫn đến việc công nhận rằng tất cả mọi
người trên tàu đều đã chết. Tôi nhắc đến vụ việc này để lấy ví dụ. Nhiệm
vụ hiện tại của các vị không đơn giản là có công nhận những phỏng đoán
hay không. Các vị đang cân nhắc một thủ tục cực kì quan trọng, vì thế cần
phải suy xét thật chắc chắn hẵng đưa ra phán quyết. Hãy cân nhắc kỹ tầm
quan trọng của những viêc mình đang được yêu cầu thực hiện.
Người đệ đơn yêu cầu công nhận người lập di chúc đã chết để tài sản của
người đó được chia cho những người được hưởng lợi theo di chúc. Quyết
định có công nhận hay không đặt chúng ta dưới một trách nhiệm vô cùng
quan trọng. Một quyết định sai lầm có thể dẫn đến bất công đối với người
lập di chúc, một sự bất công không bao giờ sửa chữa được. Vậy nên phận
sự của các vị là cân nhắc các bằng chứng thật cẩn trọng, không được đưa ra
phán quyết khi chưa suy xét từng chân tơ kẻ tóc mọi chi tiết.