Kìa là ông Finneymore (một người đa tài, có thiên hướng ưa thích hội
họa và đồ tráng men) đang ngồi trên chiếc ghế đặt trong vườn, đeo tạp dề
trắng nhưng không có áo khoác, vừa hút tẩu vừa thỏa mãn ngắm nhìn
những đóa thược dược. Chỗ cửa sổ mở đằng kia là một chàng trai trẻ, một
tay cầm bàn chải, một chiếc nữa giắt ở vành tai, đang đứng dậy vươn vai
trong khi một bà già khéo léo cuộn một tấm bản đồ lớn. Người thợ cắt tóc
đang vặn to ngọn đèn trong hiệu, người bán rau xuất hiện với điếu thuốc
trên miệng và một đóa cúc tây cài khuy, một đám trẻ con đang kéo đàn kéo
lũ theo sau người thắp đèn phố…
Tất cả những người tốt bụng, tử tế này đều là dân khu Neville chính
cống, cũng như cha ông họ nhiều thế hệ trước. Phần lớn những người ở đây
đều vậy cả. Bà Oman khẳng định mình có họ gốc ở đây, và cả quý cô xinh
đẹp người Moravia ở nhà bên có họ hàng với dòng họ La Trobe danh giá đã
lập ra hẳn một hội tôn giáo vốn có lịch sử từ tận cuộc bạo loạn Gordon; còn
với quý ông sống trong ngôi nhà cô bằng gỗ và thạch cao phía cuối khu,
người ta nói rằng ông cha người này đã cư ngụ ở ngôi nhà đó từ thời James
I.
Tôi ưu tư suy tưởng những điều này nhân lúc thơ thẩn trong sân. Thật kì
lạ khi một khu phố cổ kính với dân cư gồm toàn những người đã sống ở
đây từ xa xưa vẫn nằm lay lất giữa thành phố ồn ào này, như một hòn đảo
yên bình giữa đại dương điên cuồng, một ốc đảo trên sa mạc đầy rẫy biến
động không ngừng.
Dòng suy nghĩ đưa tôi tới trước cánh cổng tồi tàn trổ giữa bức tường cao.
Nhấc then cổng, tôi bắt gặp Ruth đang đứng trước cửa nói chuyện với bà
Oman. Cô có vẻ đang chờ đợi tôi, vì cô khoác một chiếc áo đen ảm đạm,
mũ gắn voan đen. Nhác trông thấy tôi, cô bước ra, đóng cửa lại sau lưng rồi
chìa tay đến.
“Anh đến vừa đúng giờ.” Cô nói, “Chuông nhà thờ St Dunstan đang
điểm kìa.”
“Ừ.” Tôi đáp, “Nhưng còn cha cô đâu?”