dồn nén nơi lồng ngực. Họ quả là những người bạn tuyệt vời. Những con
người đáng tôn kính còn sống sót từ cái thế giới cổ xưa đã biến mất, họ
hướng mắt nhìn ra từ bóng tối, sự hiện diện lặng lẽ không mang vẻ đe dọa
hay độc ác mà như ban phúc cho những kiếp sống phù du hiện tại.
Trong cái tủ nằm ở khoargn giữa căn phofgn đặt một hình người ma mị,
dường như tách biệt hẳn khỏi những người khác, nơi lẽ ra là khuôn mặt lờ
mờ một hình vẽ xanh xao bằng sơn. Chúng tôi cùng dừng lại trước cái tủ
đó.
“Em có biết đầy là gì không, Ruth?” Tôi hỏi.
“Dĩ nhiên em biết.” Cô trả lời, “Đây là Artemidorus.”
Chúng tôi đứng đó, tay trong tay, đối diện với cái xác ướp, để trí nhớ lấp
đầy bóng đen mờ ảo bằng những chi tiết mà mình đã biết quá rõ. Rồi tôi
kéo cô lại gần và thì thầm, “Ruth! Em có nhớ lần trước, khi chúng mình
cùng đứng ở đây không?”
“Làm sao em quên được?” Cô trả lời nồng nhiệt, “Oi, Paul! Nỗi đau
ấy… Nỗi thống khổ ấy… Trái tim em đã quặn thắt đến nhường nào khi
phải nói với anh điều đó! Chắc anh đã rất buồn khi em bỏ đi?”
“Buồn ư? Tới lúc đó anh mới biết thế nào là đau khổ. Tưởng như ánh
sáng đã biến mất khỏi cuộc đời anh mãi mãi. Nhưng vẫn còn một đóm sáng
le lói sót lại.”
“Đó là gì?”
“Em đã hứa, em ạ, một lời hứa trang nghiêm, và anh cảm thấy hay ít nhất
là anh hi vọng thế, rằng ngày ấy rồi cũng sẽ đến, chỉ cần anh biết dằn lòng
chờ đợi tới khi em hồi tâm chuyển ý.”
Cô nép mình thật sát vào tôi, tới khi đầu cô dựa vào vai tôi, hai gò má kề
sát bên nhau.
“Người yêu ơi…” Tôi thầm thì, “ Giờ có phải là khoảnh khắc ấy không?
Sự chờ đợi của anh đã chấm dứt?”