chúc.”
Ông Bellingham nhăn mặt, “Có lẽ anh nói đúng, mà cũng chẳng ích gì.
Anh biết đấy, sau khi chờ đợi một khoảng thời gian hợp lý mà không thấy
anh tôi xuất hiện trở lại, ông Jellicoe đã làm một việc rất bất thường nhưng
theo tôi thì lại rất đúng đắn trong trường hợp đặc biệt này. Ông ấy triệu tập
tôi và các bên liên quan khác tới văn phòng và cho chúng tôi biết những
điều khoản trong di chúc. Hóa ra những điều khoản đó đều cực kỳ khó tin.
Tôi nghe mà như sét đang ngang tai. Điều đáng giận là tôi cảm thấy chắc
chắn ông anh tội nghiệp của tôi cứ tưởng mình đã thu xếp mọi thứ tuyệt đối
an toàn và đơn giản.”
“Thông thường là thế.” Tôi nói, có phần hơi mơ hồ.
“Ừ.” Ông Bellingham lại tiếp, “Nhưng anh John tội nghiệp đã biến bản
di chúc thành một mớ hỗn độn kỳ quặc, và tôi chắc chắn kết cục sau cùng
là ông ấy đã tự đi ngược lại ý tốt của chính mình. Chúng tôi là một gia đình
lâu đời ở London. Ngôi nhà ở Quảng trường Nữ hoàng trên danh nghĩa là
nơi anh trai tôi ở, thực ra còn lưu trữ cả bộ sưu tập. Bao nhiêu thế hệ chúng
tôi đã ở đó, phần lớn những người thuộc dòng họ Bellingham đều được
chôn cất ở nghĩa trang St. George gần đấy mặc dù cũng có vài người được
chôn ở các nghĩa trang khác trong khu phố. Nhân tiện, anh trai tôi - người
vẫn độc thân, đã quyết tâm noi theo truyền thống gia đình, ông ấy ghi rõ
trong di chúc rằng muốn được chôn ở nghĩa trang St. George cạnh tổ tiên,
hay ít nhất ở một trong những nghĩa trang có liên quan tới xứ đạo gốc của
mình. Nhưng thay vì đơn giản diễn đạt ý nguyện và hướng dẫn mọi người
thực hiện di chúc, anh tôi lại đặt nó làm điều kiện ràng buộc việc thực hiện
di chúc.”
“Ràng buộc về khía cạnh nào?” Tôi hỏi.
“Một khía cạnh cực kì cốt tử.” Ông Bellingham đáp, “Ông ấy trao lại
phần lớn tài sản cho tôi, hoặc nếu tôi chết trước, thì sẽ trao lại cho con gái
tôi là Ruth. Nhưng việc trao tài sản này phụ thuộc vào điều kiện mà tôi vừa
nói, rằng anh tôi phải được chôn cất ở đúng địa điểm, và nếu điều kiện này