vị bán thần đầu hói để đổi lấy chiếc đĩa thần kỳ) chúng tôi bước đi dưới mái
vòm khổng lồ của phòng đọc sách.
Tôi thường nghĩ nếu một loại hơn chết người nào đó có đặc tính bảo
quản cao như formaldehyde chẳng hạn, được bơm vào không khí trong căn
phòng này, bộ sưu tập hoàn chỉnh gồm những cuốn sách và đám mọt sách
quả thực sẽ rất đáng được lưu trữ để khai sáng cho các thế hệ sau như một
di tích khảo cổ phụ thêm cho bộ sưu tập chính ở Viện bảo tàng, vì chắc
chắn không nơi nào trên thế giới lại có nhiều người lạ lùng và quái dị tập
trung hết vào một chỗ như thế.
Một câu hỏi kỳ lạ chắc chắn đã nảy ra trong đầu những người quan sát
cảnh này: Những sinh vật lạ lùng kia từ đâu tới, và chúng đi đâu khi cái
đồng hồ có hình dáng đặc biệt (dành riêng cho thị lực của dân mê sách) báo
đã tới giờ đóng cửa? Thí dụ như người đàn ông có bộ mặt rầu rĩ và mái tóc
xoăn tít liên tục phất phơ theo mỗi bước đi kia? Hay ông già thấp bé bận áo
thầy tu đen và mũ quả dưa bất chợt quay đầu lại khiến ta bị một phen thót
tim khi nhận ra đó là một phụ nữ trung tuổi? Tất cả bọn họ đi về dâu?
Không ai có thể bắt gặp họ ở bất cứ nơi nào khác. Liệu sau giờ đóng cửa,
họ có lẩn vào đáy sây của Viện bảo tàng, ẩn náu trong các áo quan và hòm
đựng xác ướp đến sáng? Hay họ luồn qua kẽ hở giữa các kệ sách và trú ngụ
qua đêm sau các cuốn sách, giữa bầu không khí hài hòa của bìa da và giấy
cổ? Ai mà biết được? Điều tôi biết là khi Ruth Bellingham bước vào phòng
đọc sách, cô như một sinh vật ở đẳng cấp khác hẳn so với những người kia,
thậm chí giống như bức tượng đầu của Antinous vốn trước đây từng đặt
giữa đám tượng bán thân của các Hoàng đế La Mã (giờ đã chuyển đi nơi
khác), cứ như thể đầu của một vị thần đặt giữa căn phòng bày đầy chân
dung của đám khỉ đầu chó vênh vang.
“Chúng ta phải là gì đây?” Tôi hỏi khi tìm được ghế trống, “Cô muốn
xem danh sách không?”
“Không, tôi có phiếu trong túi. Những cuốn sách đã được giữ sẵn ở khu
’Đặt trước’.”