thực là vậy. Tôi vừa mới đọc lướt qua tối hôm trước và thực sự không tài
nào hiểu làm thế nào mà một người đàn ông minh mẫn lại có thể viết ra
những điều ngớ ngẩn đến thế.”
“Vậy cô có một bản sao?” Tôi phấn khỏi hỏi, sực nhớ đến lời dặn của
Thorndyke trước lúc từ biệt.
“Có. Anh muốn xem không? Tôi biết cha tôi đã kể cho anh nghe về nó,
bản di chúc cũng rất đáng đọc như một ví dụ điển hình cho tính tai quái của
con người.”
“Tôi rất muốn cho một người bạn tôi là Tiến sĩ Thorndyke xem nó.” Tôi
trả lời, “Ông ấy nói mình rất muốn đọc bản di chúc để biết chính xác các
điều khoản, và có lẽ ta cũng nên để ông ấy xem và nghe ý kiến của ông ấy
về chuyện này.”
“Tôi thấy ổn.” Cô đồng tình, “Nhưng anh biết cha tôi thế nào rồi đấy.
Ông ấy kinh hoàng với việc... ý tôi là, ông ấy không thích bị gọi là ’xin xỏ
người ta tư vấn không công.”
“Ồ, nhưng cha cô không phải bận tâm về chuyện đó đâu. Tiến sĩ
Thorndyke muốn xem bản di chúc vì quan tâm tới vụ này thôi. Ông ấy là
một người đam mê công việc, và coi điều này như một đặc ân cho riêng
mình ấy mà.”
“Ông ta thật là tốt bụng và khéo léo! Để tôi nói lại với cha tôi cho. Nếu
cha tôi đồng ý cho Tiến sĩ Thorndyke xem bản di chúc, tối nay tôi sẽ gửi
hoặc tự tay mang đến. Chúng ta uống trà xong chưa?”
Tôi buồn bã thú nhận bữa trà đến đây là kết thúc. Sau khi đã thanh toán
khoản tiền nho nhỏ, chúng tôi cùng nhau trở lại phố Great Russell để tránh
sự ồn ào và hối hả của những con phố lớn.
“Bác cô là người thế nào?” Tôi hỏi khi cả hai bước dọc con đường yên
ắng, tôn nghiêm, rồi vội vàng nói thêm, “Cô đừng nghĩ tôi là kẻ tọc mạch,