đứng trước ngưỡng cửa của ngôi nhà đã từng thuộc về gia đình mình suốt
bao nhiêu thế hệ, giờ đây lẽ ra nó phải thuộc về cô, thì kết cục lại là đang
sắp sửa rơi vào tay những kẻ lạ mặt.
Cũng ngước nhìn ngôi nhà với niềm hứng thú kỳ lạ, tôi bị ấn tượng với
vẻ u ám và bí mật của nó. Các cửa sổ từ từng hầm lên đến gác xép đều lắp
cửa chớp, đứng bên ngoài không thể nhìn thấy dấu hiệu nào của sự sống.
Im lìm, hoang phế, cô độc, tổng thể ngôi nhà toát lên bầu không khí bi
thương như thể nó đang bận đồ tang và phủ đầy bụi tro khóc thương chủ
nhân đã mất. Cánh cửa to lớn nằm dưới mái hiên chạm trỗ tuyệt đẹp bám
từng mảng bụi, có lẽ không ai còn dùng đến nữa; những cột đèn cổ và
những cái chụp bằng sắt han gỉ tại nơi các người hầu từng dập tắt bó đuốc
trong lúc quý bà nhà Bellingham được khiêng trên chiếc kiệu lộng lẫy lên
những bậc thang trong thời hoàng kim xưa cũ của Nữ hoàng Anne.
Chúng tôi thành kính xoay người và bắt đầu về nhà theo phố Great
Ormond. Người bạn đồng hành của tôi tỏ ra trầm ngâm, chốc chốc lại chìm
vào u buồn, hình ảnh này đã gây ấn tượng rất mạnh với tôi khi mới gặp
mặt. Ngay cả tôi cũng không khỏi miên man suy nghĩ, tựa như từ ngôi nhà
to lớn và tĩnh lặng, hồn ma của người đàn ông mất tích đã lọt ra mà đi cùng
chúng tôi.
Tuy thế đó vẫn là một cuộc dạo chơi dễ chịu, sau cùng chúng tôi cũng về
tới lối vào khu Neville và cô Bellingham dừng lại, chìa tay ra, khiến trong
tôi tràn đầy niềm tiếc nuối.
“Tamk biệt.” Cô nói, “Rất, rất cảm ơn sự giúp đỡ vô giá của anh. Xin
phép anh cho tôi lấy lại cái túi nhé?”
“Nếu cô muốn. Nhưng tôi phải lấy lại cuốn sổ tay.”
“Tại sao anh phải giữ nó?” Cô hỏi.
“Tại sao à? Chẳng phải tôi cần chép lại chữ viết tắt thành chữ thường hay
sao?”