đưa đến nhận thức đầy sống động về những điều miêu tả trong sách vở về
sự tái sinh.”
“Không, việc ông ta khăng khăng đòi được chôn cất tại một địa điểm
nhất định chẳng liên quan gì tới niềm tin tôn giáo, đây đơn giản chỉ là cảm
tính ngớ ngẩn.”
“Đúng là cảm tính, tôi thừa nhận thế.” Thorndyke nói, “Song tôi sẽ
không gọi nó là ngớ ngẩn đâu. Cảm tính được lan truyền quá rộng rãi theo
thời gian và không gian đến độ chúng ta phải nhìn nó với sự kính trọng như
một điều cố hữu của bản tính con người. Hãy nghĩ như John Bellingham,
về những người AI Cập cổ đại – những người dồn hết tâm sức cho sự yên
nghỉ vĩnh hằng của người đã khuất. Hãy nhìn vào những khó khăn mà họ
đã phải vượt qua để đạt được nó. Hãy nghĩ về kim tự tháp, hoặc lăng mộ
của Amenemhat Đệ Tứ với những mê cung chằng chịt các lối đi giả và
phần mộ được bịt kín, cất giấu thật kỹ. Hãy nghĩ tới Jacob - người sau khi
chết đã phải vượt qua hàng trăm dặm đường dài dằng dặc chỉ để được ngủ
yên với ông chủ mình. Và hãy nhớ tới Shakespeare với lời trang nghiêm
dành cho hậu thế hòng được yên nghỉ dưới nấm mồ. Berkeley ạ, đấy không
phải chỉ là cảm tính ngu ngốc. Tôi cũng bàng quan không kém gì anh với
thi thể của chính mình khi ‘đằng nào thì cũng chết rồi’ - theo cách nói bất
kính của anh, nhưng tôi coi mối quan tâm đặc biệt mà một số người dành
cho vấn đề này là cảm xúc tự nhiên và đáng được tôn trọng.”
“Ngay cả như thế…” Tôi băn khoăn, “Nếu người này khao khát có một
thái ấp cho riêng mình ở một khu mồ mã đích xác nào đó, lẽ ra ông ta phải
dàn xếp theo cách hợp lý hơn…”
“Về khoản này thì tôi hoàn toàn đồng ý với anh.” Thorndyke gật gù,
“Chính cách diễn đạt ngớ ngẩn các điều khoản này không chỉ gây ra vô số
rắc rối mà còn khiến bản thân tờ di chúc trở nên cực kỳ quan trọng trong
trường hợp người làm di chúc đã mất tích.”
“Quan trọng như thế nào?” Jervis hỏi với vẻ bồn chồn.